Chủ Nhật, 3 tháng 7, 2016

Nghiên cứu thành phần glucolipit từ cây gừa (ficus microcapa)

Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 Khoá luận tốt nghiệp Nhiệm vụ của đề tài: 1. Thu mẫu lá cây gừa (Ficus microcapa), xử lí mẫu và tạo dịch chiết metanol. 2. Tách chiết các hợp chất glucolipit. 3. Xác định cấu trúc hóa học các hợp chất đã tách, chiết được. Trần Thị Hồng 2 K33C - Khoa Hóa học Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 Khoá luận tốt nghiệp Chương 1: Tổng Quan 1.1. Tổng quan về cây Gừa 1.1.1. Thực vật học Tên khoa học: Ficus microcapa. Tên tiếng việt : Gừa Họ: Dâu tằm - Moraceae Cây gỗ to, cao 15 20m, có rễ khí sinh mọc từ cành. cành non có cạnh, sau hình trụ, màu xám tro. lá mọc so le, dày và dai, dài 6 18cm, rông 3 8 cm, gốc tròn hoặc thuôn, đầu nhọn, mép nguyên, mặt trên sẫm bóng, mặt dưới nhạt, 2 mặt nhẵn, lá non có lông trắng mềm, lá kèm nhỏ. Cụm hoa có dạng quả sung, mọc ở kẽ lá, gần như không cuống chứa hoa đực và hoa cái. Quả màu vàng, có vân đỏ, mùa hoa quả tháng 5 7. Hình 1.1.1: Lá và quả cây Gừa. Trần Thị Hồng 3 K33C - Khoa Hóa học Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 Khoá luận tốt nghiệp 1.1.2. Phân bố, sinh thái. Ficus L. là 1 chi lớn gồm rất nhiều loài. hiện nay ước tính trên thế giới có khoảng 1000 loài, phân bố rộng rãi ở tất cả các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới của 2 bán cầu, phân bố nhiều nhất ở Malaysia (có mặt 50% tổng số loài). Việt Nam, chi Ficus L. được ước tính có tới 120 loài (Nguyễn Tiến Bân,1997) và được phân bố rộng rãi. Gừa thuộc nhóm cây gỗ lớn, phân bố rải rác ở khắp các tỉnh miền nuí, trung du, đồng bằng và các đảo. trên thế giới loài cây này cũng gặp ở nhiều nơi từ Ân Độ, Srilanka, Nam Trung Quốc đến Đông Dương, các nước Đông Nam á, đảo Solomon, Caroline,Australia Việt Nam Gừa thường thấy trong các quần hệ rừng núi đá, rừng thứ sinh nhất là ở vùng ven biển và đảo. Cây cũng được trồng xung quanh làng bản, nơi công cộng để lấy bóng mát. Khi còn nhỏ cây có thể ở dạng sống phụ sinh (trên đá hay cây gỗ khác). Sau lớn dần bóp nghẹt cây giá để trở thành cây gỗ lớn với nhiều rễ khí sinh buông xuống từ cành. Gừa ra hoa quả nhiều hàng năm. quả chín là thức ăn ưa thích của nhiều loài chim rừng. Do đó hạt được phát tán dễ dàng đi khắp nơi. Hạt rơi vào các kẽ đá, hốc cây đều có khả năng nảy mầm. tuổi thọ của Gừa có thể hàng trăm năm, gỗ nhẹ và mềm nên ít được sử dụng. Bộ phận được sử dụng: rễ và lá, thu hái quanh năm, dùng tươi hay phơi khô. Tính vị, công năng: - Rễ Gừa có vị đắng, chát, tính bình, mát, có tác dụng khử phong, thanh nhiệt, hoạt huyết, giải độc. -Lá Gừa có vị đắng, chát, tính mát, có tác dụng hoạt huyết, tán ứ, giải nhiệt, lý thấp. Trần Thị Hồng 4 K33C - Khoa Hóa học Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 Khoá luận tốt nghiệp 1.1.3. Công dụng Theo kinh nghiệm nhân dân, 1 số người bốc thuốc chữa bệnh ở tỉnh Minh Hải đã dùng rễ Gừa phối hợp với nhiều vị thuốc để chữa bệnh sỏi thận. Cách bào chế như sau: rễ Gừa 30g, rễ nhàu 20g, thân cây muồng trâu 20g, cây thài lài trắng 10g, vỏ thân cây chân chim 10g, lõi cỏ bấc 4g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400ml nước, còn 100ml nước. Uống làm 2 lần trong ngày. Mỗi đợt điều trị kéo dài 5-7 ngày. Dùng chữa bệnh liệt nửa người từ rễ Gừa như sau: rễ gừa 30g, rễ nhàu non hoặc vỏ, thân cây nhàu già 20g, cây trinh nữ 20g. Trung Quốc, rễ Gừa được dùng chữa cảm cúm, ho gà, sởi mọc không đều, viêm kết mạc, đau mắt hột, đau phong thấp, chảy máu cam, đi tiểu ra máu. Để chữa đau răng lấy tua rễ Gừa, bồ kết với lượng bằng nhau, sắc với nước, ngậm không được uống. Lá Gừa chữa vết thương do đâm, chém, cảm cúm, viêm amidan, viêm phế quản mãn tính, kiết lị, viêm ruột. Nhựa, mủ từ cây Gừa pha với giấm bôi ngoài để chữa hắc lào, tràng nhạc. 1.1.4. Thành phần hoá học Vỏ cây Gừa chứa 14 chất tritecpenoid, 1 ancol béo, 8 chất steroit, 1 chất coumarin, 1 chất flavan, 2 chất 4-hydroxybenzoat và 1 chất tương tự carotenoid (Kuo Yueh Hsiung và cs, 1997; CA. 127,231875w). Vỏ chứa ficuisoflavon và iso lupinisoflavon E. (Theo Li Yen Cheng và cs, 1997) (CA. 126, 142027a). Trần Thị Hồng 5 K33C - Khoa Hóa học Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 Khoá luận tốt nghiệp Quả chứa amyrin acetat, amyrin, acid maslinic, acid 2 hydroxyursolic, acid oleanolic, sitosterol và acid protocatechuic (Higa Mastutake và cs, 1996; CA. 126, 318827p). 1.2. Các phương pháp chiết mẫu thực vật Sau khi tiến hành thu hái và làm khô mẫu, tuỳ thuộc vào đối tượng chất có trong các mẫu khác nhau (chất không phân cực, chất có độ phân cực trung bình, chất phân cực) mà ta chọn dung môi và hệ dung môi khác nhau 1.2.1. Chọn dung môi chiết Điều kiện của dung môi là phải hoà tan được những chất chuyển hoá thứ cấp đang nghiên cứu, dễ dàng được loại bỏ, có tính trơ (không phản ứng với chất nghiên cứu), không dễ bốc cháy, không độc. Thường thì các chất chuyển hoá thứ cấp trong cây có độ phân cực khác nhau. Tuy nhiên những thành phần tan trong nước ít khi được quan tâm. Dung môi dùng trong quá trình chiết ít khi được quan tâm và cần phải được lựa chọn rất cẩn thận. Dung môi nếu lẫn các tạp chất thì có thể ảnh hưởng đến hiệu quả và chất lượng của quá trình chiết. Vì vậy những dung môi này cần được chưng cất để thu được dạng sạch trước khi sử dụng. Có một số chất dẻo thường lẫn trong dung môi như: diankyl phtalat, tri-n-butyl photsphat và tri-n-butyl axetylcitrar. Những chất này có thể lẫn với dung môi trong quá trình sản xuất hoặc trong khâu bảo quản như trong các nút đậy bằng nhựa hoặc trong các thùng chứa. Methanol và chlorofrom thường chứa dioctylphtalat [di-(2-etylhexyl) phtalat hoặc bis-2-etylhexyl-phtalat]. Chất này sẽ làm sai lệch kết quả phân lập trong các quá trình nghiên cứu hoá thực vật, thể hiện hoạt tính trong thử nghiệm sinh học và có thể làm bẩn dịch chiết của cây. Chlorofrom, metyl Trần Thị Hồng 6 K33C - Khoa Hóa học Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 Khoá luận tốt nghiệp clorit và methanol là những dung môi thường được lựa chọn trong quá trình chiết sơ bộ một phần của cây như: Rễ, thân, lá, hoa, củ, quả Những tạp chất của chlorofrom như CH2ClBr, CH2Cl2 có thể phản ứng với vài hợp chất như các ancaloit tạo muối bậc 4 và những sản phẩm khác. Tương tự như vậy, sự có mặt của một lượng nhỏ axit clohidric (HCl) cũng có thể gây ra sự phân huỷ, sự khử nước hay sự đồng phân hoá với các hợp chất khác. Chlorofrom có thể gây tổn thương cho gan và thận nên khi làm việc với chất này cần thao tác cẩn thận và khéo léo ở nơi thoáng mát và phải đeo mặt nạ phòng độc. Metylen clorit ít độc hơn và dễ bay hơi hơn chlorofrom. Methanol và etanol 80% là những dung môi phân cực hơn các hidrocacbon thế clo. Các dung môi thuộc nhóm rượu được cho rằng sẽ thấm tốt hơn lên màng tế bào nên quá trình chiết với các dung môi này sẽ thu được lượng lớn các thành phần trong tế bào. Trái lại, khả năng phân cực của chlorofrom thấp hơn, nó có thể rửa giải các chất nằm ngoài tế bào. Các ancol hoà tan phần lớn các chất chuyển hoá phân cực cùng với các hợp chất phân cực trung bình và thấp. Vì vậy khi chiết bằng ancol thì các chất này cũng bị hoà tan đồng thời. Thông thường dung môi cồn trong nước có những đặc tính tốt nhất cho quá trình chiết sơ bộ. Tuy nhiên cũng có một vài sản phẩm được tạo thành khi dùng methanol trong suốt quá trình chiết. Thí dụ trechlonolide A thu được từ trechonaetes aciniata được chuyển thành trechonolide B bằng quá trình phân huỷ 1-hydroxytropacocain cũng xảy ra khi erythroxylum novogranatense được chiết trong methanol nóng. Người ta thường ít sử dụng nước để thu được dịch chiết thô từ cây mà thay vào đó là dùng dung dịch nước của methanol. Dietyl ete hiếm khi được dùng cho các quá trình chiết thực vật vì nó rất dễ bay hơi, dễ bốc cháy và rất độc, đồng thời nó có xu hướng tạo thành peroxit Trần Thị Hồng 7 K33C - Khoa Hóa học

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét