
Thứ Tư, 25 tháng 5, 2016
Ảnh hưởng của nguồn giống và phương thức bảo quản đến sinh lí hạt một số giống lúa khi nảy mầm
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Nguyễn Văn Đính
- Khuyến cáo người nông dân về cách bảo quản và sử dụng nguồn
giống lúa trong sản xuất.
1.3. Nội dung nghiên cứu
- Khảo sát nguồn giống và cách bảo quản hạt giống của một số giống
lúa chủ yếu ở tỉnh Hòa Bình.
- Đánh giá ảnh hưởng của nguồn giống và phương thức bảo quản đến
một số chỉ tiêu sinh lí, nhiễm bệnh của một số giống.
+ Khối lượng 1000 hạt.
+ Ẩm độ của hạt.
+ Tỉ lệ nảy mầm.
+ Sức nảy mầm.
+ Tỉ lệ nhiễm sâu bệnh.
+ Sinh trưởng của mầm (rễ mầm, lá mầm).
- Đánh giá ảnh hưởng của phương thức bảo quản đến tỉ lệ nhiễm nấm
của một số giống lúa.
- Đánh giá ảnh hưởng của nguồn giống đến tỉ lệ nảy mầm, sức nảy
mầm của hai giống Q5 và Bao thai trong cùng một điều kiện bảo quản.
1.4. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
1.4.1. Địa điểm
- Địa điểm lấy mẫu: một số huyện trọng điểm của tỉnh Hòa Bình: Cao
Phong, Lương Sơn, Mai Châu, Lạc Sơn và Lạc Thủy.
- Địa điểm thí nghiệm: PTN Chi cục BVTV tỉnh Hòa Bình.
1.4.2. Thời gian
- Ngày bắt đầu: 14/02/2011.
- Ngày kết thúc: 22/4/2011.
Nguyễn Thị Nhung
-3-
K33C – Sinh KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Nguyễn Văn Đính
1.5. Ý nghĩa của đề tài
1.5.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả của đề tài sẽ bổ sung các dẫn liệu về nguồn giống và cách bảo
quản giống lúa của người nông dân hiện nay ở tỉnh Hòa Bình. Kết quả của đề
tài còn bổ sung các dẫn liệu về ảnh hưởng của phương thức bảo quản đến một
số chỉ tiêu sinh lí của hạt một số giống lúa.
1.5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của đề tài là bằng chứng để đưa ra lời khuyến cáo cho người
sản xuất lúa ở tỉnh Hòa Bình nói riêng và các tỉnh có điều kiện tương tự về sử
dụng nguồn giống và cách bảo quản giống tốt nhằm nâng cao năng suất, tăng
thu nhập cho người sản xuất.
Nguyễn Thị Nhung
-4-
K33C – Sinh KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Nguyễn Văn Đính
PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Vai trò của cây lúa
Cây lúa nước (Oryza sativa L.) đã trở thành cây lương thực chủ yếu của
con người từ rất lâu. Có khoảng 40% dân số thế giới coi lúa gạo là nguồn
lương thực chính, 25% dân số sử dụng lúa gạo trên 50% khẩu phần lương
thực hàng ngày. Như vậy, lúa gạo ảnh hưởng đến đời sống của 65% dân số
thế giới [4].
Ở những nước có nền kinh tế đang phát triển như nước ta thì số lượng
lao động phục vụ trong nông nghiệp mà chủ yếu là trồng lúa chiếm phần rất
lớn (hơn 80%). Như vậy, cây lúa góp phần vào việc giải quyết việc làm cho
một lượng lớn lao động và giải quyết vấn đề an ninh lương thực quốc gia.
Trên thế giới, tình hình sản xuất lúa gạo trong 3 thập kỷ gần đây đã có
mức tăng trưởng đáng kể. Tuy tổng sản lượng của lúa tăng trưởng 70% trong
30 năm nhưng do dân số tăng quá nhanh nhất là ở các nước đang phát triển
(Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ La Tinh). Như vậy, cây lúa đóng vai trò quan
trọng trong việc giải quyết vấn đề an ninh lương thực thế giới.
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của công nghệ sinh học kết
hợp với những tiến bộ của khoa học kĩ thuật (KHKT), các nhà khoa học đã
chọn tạo ra các giống lúa có năng suất cao, chất lượng tốt, khả năng chống
chịu sâu bệnh cao đã đưa nước ta lên một bước tiến lớn trong sản xuất lúa
gạo. Đặc biệt, nước ta đã trở thành nước đứng thứ 2 trên thế giới (sau Thái
Lan) về xuất khẩu gạo và hàng năm đã góp phần lớn vào tổng thu nhập quốc
dân (GDP).
Các sản phẩm của cây lúa có nhiều giá trị khác nhau nhưng quan trọng
nhất là gạo. Gạo cung cấp các chất dinh dưỡng cho sự sống con người như:
tinh bột, protein, chất béo, vitamin (B1, B2, B6, PP).
Nguyễn Thị Nhung
-5-
K33C – Sinh KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Nguyễn Văn Đính
Hàm lượng xenlulozơ trong gạo cao làm cho gạo là loại thức ăn dễ tiêu
hóa, hệ số tiêu hóa cao.
Ngoài gạo cung cấp calo cho sự sống con người, các bộ phận khác của
cây lúa cũng có rất nhiều lợi ích: rơm, rạ làm chất đốt hoặc thức ăn dự trữ cho
chăn nuôi trâu bò; thân cây sau khi thu hoạch được cày vùi làm phân bón; trấu
dùng để độn chuồng và hiện nay trấu hun là nguyên liệu giá thể để giâm cành
các loại hoa; rơm rạ dùng để làm giá thể nuôi nấm (nấm rơm, nấm sò).
Gạo còn dùng để sản xuất bia, rượu, cồn, làm bánh kẹo, axeton, thuốc
chữa bệnh; cám được sử dụng nhiều trong chăn nuôi gia súc, nuôi trồng thủy
sản, dùng trong dược phẩm (sản xuất thuốc B1), mĩ phẩm, sơn; rơm rạ còn
dùng làm vật liệu xây dựng, sản xuất giấy...
Với những lợi ích to lớn mà cây lúa mang lại, cây lúa đã trở thành cây
trồng phổ biến và chủ lực của nhiều nước trên thế giới. Lúa gạo đã trở thành
mặt hàng có giá trị xuất khẩu. Ở Việt Nam, lúa là cây lương thực hàng đầu
cung cấp năng lượng duy trì sự sống cho người dân. Nó giữ vai trò quan trọng
trong việc đảm bảo an toàn lương thực thực phẩm. Ngoài ra, còn là cây trồng
đóng góp giá trị lớn nhất trong ngành nông nghiệp.
1.2. Tình hình sản xuất lúa của tỉnh Hòa Bình
Hòa Bình là một tỉnh miền núi có vị trí chiến lược quan trọng đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội 76 km có
diện tích tự nhiên là 466.252 ha. Trong đó, đất lâm nghiệp 329.317 ha chiếm
70,6%; đất nông nghiệp 66.758 ha, chiếm 14,32% còn lại là các loại đất khác
chiếm 15,1% [2].
Theo báo cáo của Sở NN&PTNT: Vụ Xuân 2010, toàn tỉnh cấy gần
15.950 ha lúa, trong đó tỉ lệ giống lúa tiến bộ đạt 86,5%. Năng suất bình quân
ước đạt trên 53 tạ/ha. Trong đó nhiều địa bàn của huyện Kim Bôi, thành phố
Hòa Bình, Lương Sơn... đạt năng suất bình quân gần 60 tạ/ha [8].
Nguyễn Thị Nhung
-6-
K33C – Sinh KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Nguyễn Văn Đính
Lúa, 22%
Ngô, 30.30%
Cây màu khác,
21.80%
Cây thực phẩm,
8%
Cây công nghiệp
ngắn ngày,
17.90%
Biểu đồ 1: Cơ cấu cây trồng chính của tình Hòa Bình năm 2011
Trong sản xuất cây nông nghiệp, cây lúa là cây trồng có vị trí quan
trọng nhất. Diện tích lúa ruộng năm 2009 tăng 1.853 ha so với 1996. Trong đó
diện tích của 5 huyện có cánh đồng lớn: Lạc Sơn, Kim Bôi, Tân Lạc, Lương
Sơn, Yên Thủy chiếm gần 73% diện tích lúa ruộng toàn tỉnh. Một trong
những thành tựu quan trọng trong sản xuất lúa của tỉnh là trong những năm
gần đây đẩy mạnh gieo cấy các giống lúa có năng suất, chất lượng cao và sản
xuất các giống lúa lai như: Nghi hương 2308, Nhị ưu 838, Nhị ưu 63, Bồi tạp
sơn thanh, Dự ưu 527 (chiếm trên 45% diện tích gieo trồng của tỉnh). Ngoài
ra một số giống lúa thuần phù hợp với điều kiện của tỉnh như: Khang dân, Q5,
AYT.77, TH3-3 và áp dụng các biện pháp thâm canh mới vào sản xuất như
chương trình 3 giảm - 3 tăng đã làm cho năng suất tăng lên đáng kể. Từ 29
tạ/ha (1996) tăng lên khoảng 49 tạ/ha (2009). Trong đó có nhiều huyện đạt
trên 52 tạ/ha như ngoại vi thành phố Hòa Bình đạt 53tạ/ha; huyện Lương Sơn
đạt 52,1 tạ/ha; các huyện Kim Bôi, Lạc Sơn đạt khoảng 52 tạ/ha. Do năng
suất lúa tăng nhanh nên tuy diện tích tăng không lớn song sản lượng tăng khá
lớn. Năm 2009 đạt trên 200.000 tấn tăng 86.000 tấn so với năm 1996.
Nguyễn Thị Nhung
-7-
K33C – Sinh KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Nguyễn Văn Đính
Sản xuất Vụ Chiêm - Xuân 2010 - 2011, theo dự báo thời tiết có nhiều
diễn biến phức tạp, khó lường, khô hạn diễn ra gay gắt. Hiện tại, các hồ, đập
thủy lợi mới tích nước được khoảng 60%. Do vậy chủ trương của Tỉnh,
Ngành nông nghiệp chỉ đạo các địa phương chủ động chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, quản lí chặt chẽ các nguồn nước, điều tiết sử dụng nước tiết kiệm, chủ
động đủ giống phân bón, thuốc bảo vệ thực vật. Không cấy lúa ở những diện
tích không chủ động nước tưới, chuyển sang trồng các loại cây sử dụng ít
nước. Chủ động phòng chống dịch bệnh, tăng cường áp dụng khoa học kĩ
thuật vào sản xuất [14].
Theo kế hoạch, tổng diện tích Vụ Chiêm - Xuân 2010 - 2011 toàn tỉnh
là 78.600 ha trong đó cây Vụ Đông năm 2010 ước đạt 9.000 ha và Vụ Xuân
2011 phấn đấu gieo trồng 69.600 ha. Riêng cây lương thực có hạt Vụ Chiêm Xuân là 35.000 ha, tổng sản lượng cây có hạt đạt 174.650 tấn. Trong đó, có
84.000 tấn lúa, 90.650 tấn ngô. Để sản xuất Vụ Chiêm - Xuân đạt kế hoạch đề
ra, ngay từ đầu tháng 11, Sở NN&PTNT đã tổ chức triển khai kế hoạch sản
xuất yêu cầu các địa phương tuân thủ nghiêm ngặt tính thời vụ. Chủ động
cung ứng giống vật tư, phân bón theo yêu cầu của nông dân, đảm bảo đủ cơ
cấu giống theo kế hoạch đã định. Chú ý sử dụng giống ngắn ngày, có tiềm
năng năng suất cao, chống chịu sâu bệnh, thực hiện đầu tư thâm canh, chăm
sóc, bảo vệ theo đúng quy trình khuyến cáo.
Xác định cơ cấu trà và thời vụ gieo cấy lúa, căn cứ theo từng loại đất,
từng cánh đồng và nguồn nước thuận tiện cũng như đặc điểm thời tiết của
từng vùng để bố trí cơ cấu trà, giống hợp lí. Từng bước mở rộng diện tích các
giống lúa có năng suất, chất lượng cao nhằm đáp ứng hai mục tiêu là đảm bảo
an ninh lương thực và sản xuất hàng hóa, tăng thu nhập cho hộ dân. Trong đó,
trà lúa Chiêm - Xuân sớm chiếm 5% diện tích, trà xuân chính vụ từ 40 - 45%
diện tích và trà xuận muộn chiếm 45 - 50% diện tích. Lịch gieo mạ bắt đầu từ
Nguyễn Thị Nhung
-8-
K33C – Sinh KTNN

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét