
Thứ Tư, 11 tháng 5, 2016
Thương cảng thị nại từ thế kỷ x đến thế kỷ XV
Như vậy, ta có thể thấy Thị Nại có vị trí tương đối khúc khuỷu. Phía
Đông Nam có dãy núi Phương Mai kéo dài, phía Bắc là biển với đường bờ biển
khúc khuỷu, có nhiều cửa sông tạo thành vịnh kín gió thuận lợi cho tàu thuyền
tránh gió, hình thành thương cảng. Đây là đặc điểm thuận lợi chung để hình
thành các thương cảng Đàng Trong. Hơn nữa, sự hiện diện của bán đảo Phương
Mai chạy dài gần 20 km song song với bờ biển của Vijaya đã trở thành một tấm
bình phong chắn gió cho tàu thuyền lưu thông trong vùng biển Thị Nại, đặc biệt,
tàu thuyền có thể ra vào từ cả cửa biển phía Bắc cũng như cửa biển phía Nam
(cửa Quy Nhơn ngày nay). Nhận định này càng trở nên chắc chắn bởi cho đến
cuối thế kỷ XVII, Giáp Ngọ Niên Bình Nam Đồ khi vẽ về Nước Mặn Hải Môn
của phủ Quy Ninh vẫn cho thấy rõ sự chia tách giữa bán đảo Phương Mai với
đất liền. Cảng Thị Nại là cửa ngõ tiến ra biển của toàn bộ vùng cao nguyên trù
phú phía Tây. Với ý nghĩa này, thương cảng Thị Nại có thể được xem là một
điểm kết nối giữa biển và lục địa.
Thương cảng Thị Nại nằm ở vị trí tiếp giáp giữa đất liền với cửa sông ven
biển tạo điều kiện cho cư dân nơi đây phát triển hoạt động hướng sông, hướng
biển từ rất sớm. Sự hình thành và phát triển của vùng cửa sông Côn chịu ảnh
hưởng rất lớn tới các điều kiện của biển lẫn lục địa.
Cùng với cảng Thị Nại thì thành Thị Nại cũng được xây dựng. Dựa trên
các khảo sát điền dã, thì hiện dấu vết của tòa thành này vẫn còn được lưu giữ tại
hạ lưu sông Côn, gần với địa điểm tọa lạc của Tháp cổ Bình Lâm. Sự hiện diện
của thành Thị Nại cùng với tháp cổ Bình Lâm tại vùng hạ lưu sông Côn, tiếp
giáp với phía Bắc của vịnh Thị Nại ngày nay cũng gợi cho chúng ta nhận thức
cơ bản về vị trí cổ xưa của thương cảng Thị Nại. Xét theo địa hình duyên hải
Bình Định ngày nay thì vịnh Thị Nại chỉ có một cửa thoát ra biển ở cửa Quy
Nhơn. Tất cả thuyền bè muốn lưu thông ra vào vịnh Thị Nại đều phải đi qua cửa
biển này.
Căn cứ vào tài liệu lịch sử, địa lý và điền dã khảo cổ học, có thể khẳng
định rằng Thị Nại là một thương cảng rộng lớn, đủ sức để chứa đựng nhiều
7
nguồn hàng ở nội địa cũng như ở bên ngoài lưu thông, là nơi dừng chân của
nhiều thương nhân, tàu buôn lớn của nước ngoài.
Việc xác định một vị trí chính xác tuyệt đối của thương cảng Thị Nại thời
Vijaya là tương đối khó khăn. Chúng ta chỉ có thể dựa trên những bằng chứng
lịch sử cùng với khảo sát địa chất- sinh thái của khu vực biển Quy Nhơn trong
khi chờ đợi kết quả khai quật khảo cổ học tại vùng vịnh Thị Nại- Quy Nhơn.
Cùng với sự đổi dòng của các nhánh sông Côn, cũng như là các biến đổi về địa
hình (đặc biệt là sự bồi lấp của cửa biển phía Bắc, dần dần nối liền đất liền với
dãy núi/ đảo Phương Mai ở phía Đông) thì vị trí của thương cảng Thị Nại cũng
đã có những sự thay đổi cho phù hợp. Bên cạnh đó, xét trong một cái nhìn đối
sánh đồng đại với sự vận hành của các thương cảng khác trong khu vực Đông
Nam Á như Vân Đồn ở phía Bắc của Đại Việt hay Palembang Srivijaya ở
Sumatra, cũng như thông qua việc khảo sát địa hình, địa mạo của vùng vịnh Thị
Nại, có thể nhận xét rằng: Thương cảng Thị Nại nằm ở trung tâm của một hệ
tiểu cảng ven bờ.
Với vị trí địa lý như vậy, Thị Nại nhanh chóng trở thành một nơi có điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội. Sự ra đời và phát
triển thịnh vượng của thương cảng Thị Nại đã mang đến sự ổn định, vững mạnh
cho chính thể Vijaya.
1.1.1.2. Sông ngòi
Nằm ở vị trí tiếp giáp của đất liền và sông biển, Thị Nại nhờ các con sông
bắt nguồn từ Trường Sơn và cao nguyên phía tây đổ ra biển Đông tạo nên cửa
khẩu và thương cảng. Nơi đây sớm hình thành nhiều làng mạc và trung tâm
thương nghiệp.
Đầu tiên, khi nhắc đến chính thể Vijaya cũng như thương cảng Thị Nại
không thể không nhắc đến vai trò của dòng sông Côn. Sông Côn là dòng sông
dài nhất của vùng Vijaya, và hầu hết các trung tâm kinh tế, chính trị, tôn giáo
quân sự đều nằm trải dọc theo dòng sông này. Sông Côn có thể được xem là
một trục chính của một mạng lưới trao đổi ven sông của nagara Vijaya. Sông
8
Côn trở thành con đường vận chuyển hàng hóa từ các vùng trong vương quốc
Champa tới thương cảng Thị Nại, mà đặc biệt là từ Tây Nguyên. Sông Côn
không chỉ vận chuyển hàng hóa mà còn có vai trò chuyển tải văn hóa giữa các
vùng trong vương quốc.
Sông Côn còn có vai trò địa chính trị đối với vương quốc Champa. Sông
Côn được dùng làm hào khi có giặc phương Bắc tấn công xuống, ngăn chặn sự
tấn công xâm lược của chúng, bảo vệ Thị Nại, giúp cho Thị Nại thực hiện chức
năng là quân cảng của mình, giữ vững kinh đô Vijaya.
Dòng sông Côn còn có vai trò quan trọng để gây dựng nên một đồng
bằng Bình Định trù phú. Hằng năm, sông Côn cung cấp một lượng lớn phù sa
và nước cho vùng đồng bằng này. Sự trù phú, màu mỡ của nơi đây khiến cho
vùng đồng bằng Bình Định trở thành hậu phương lương thực cho cảng thị và
cho chính thể Vijaya. Đây là một trong những nguyên nhân giúp cho chính thể
Vijaya hùng mạnh, bền vững.
Bên cạnh đó, trong không gian duyên hải với điểm nhấn là cảng Thị Nại
còn có một hệ thống thủy lộ, cửa biển và các hệ đảo ven bờ. Đó là hòn Thanh
Châu “ở thôn Chính Thành, phía nam huyện, tục gọi là núi Cù Lao, là trấn sơn
của cửa biển Thị Nại” [14, tr.30], là Ghềnh Hổ “ở phía ngoài cửa biển Thị Nại,
phía Đông huyện Tuy Phước” [14, tr.30]. Các dòng sông từ thượng nguồn đổ về
của biển Thi Nại có sông Tam Huyện “ở địa phận ba huyện Tuy Viễn, Tuy
Phước và Phù Cát nên gọi tên thế” [14, tr.32-33], chia làm 4 dòng, đều đổ vào
đầm Biển Cạn và chảy xuống cửa biển Thi Nại. Bên cạnh đó có đầm Biển Cạn
“ở phía Đông huyện Tuy Phước, chu vi hơn 9.500 trượng, nước đầm đổ vào cửa
biển Thị Nại, trong đầm có núi nhỏ, tục gọi là tháp Thầy Bói, phía tả là Ghềnh
Hồ, phía hữu là Bãi Nhạn” [14, tr.35].
Với một mạng lưới sông ngòi dày đặc như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi
cho các tài nguyên, sản vật của Champa tham dự vào hệ thống thương mại khu
vực và thế giới, góp phần tăng cường vai trò trung tâm liên vùng của thương
cảng Thị Nại.
9
1.1.3. Khí hậu
Cũng như các vùng khác trong cả nước, Bình Định nằm trong khu vực
khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa. Mùa đông khu vực này chịu ảnh hưởng của gió
mùa Đông Bắc, mùa hè chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam. Hoạt động của
gió mùa tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi và về của các đoàn thuyền buôn.
Hoạt động này chỉ diễn ra vào một khoảng thời gian nhất định từ 3 đến 4
tháng gọi là “mùa mậu dịch”. Các thương thuyền từ Đông Bắc Á đến Thị Nại đi
theo gió mùa Đông Bắc bắt đầu thổi từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Đến
tháng 6 tháng 7, gió mùa Đông Nam lại thổi ngược lên phía Bắc. Theo hướng
gió, thuyền buôn Trung Hoa, Ấn Độ,.. lại dong thuyền về nước.
Bình Định có hai mùa rõ rệt là mùa khô và mùa mưa. Mùa mưa bắt đầu
từ tháng 9 đến tháng 12. Riêng đối với khu vực miền núi có thêm một mùa mưa
phụ từ tháng 5 đến tháng 8 do ảnh hưởng của mùa mưa Tây Nguyên. Mùa khô
kéo dài từ tháng 1 đến tháng 8. Do khí hậu ở đây khô hạn và mưa kéo dài nên
các thương thuyền nước ngoài phải thường xuyên dừng chân tại những thương
cảng dọc miền Trung trên lãnh thổ đất Bình Định để tránh mưa to, gió lớn hay
lấy nước ngọt, lương thực và trao đổi hàng hóa. Điều này càng đẩy mạnh vai trò
của các thương cảng trong hoạt động kinh tế thương mại ở vùng đất này. Thêm
nữa, ở Thị Nại cho đến trước Tết Âm lịch thời tiết vẫn khô ráo thuận lợi cho
việc thu gom, vận chuyển, bốc dỡ hàng hoá.
Độ ẩm tuyệt đối tại khu vực miền núi là 22,5 - 27,9% và độ ẩm tương đối
79-92%; tại vùng duyên hải độ ẩm tuyệt đối trung bình là 27,9% và độ ẩm
tương đối trung bình là 79%.
Chế độ mưa: Đối với các huyện miền núi tổng lượng mưa trung bình năm
2.000 - 2.400 mm. Đối với vùng duyên hải tổng lượng mưa trung bình năm là
1.751 mm. Tổng lượng mưa trung bình có xu thế giảm dần từ miền núi xuống
duyên hải và có xu thế giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam.
Vậy là ngay từ những buổi đầu sơ khởi vùng Thị Nại đã có những tiền đề
thuận lợi của một thương cảng thời trung cổ phát triển một hệ thống giao
10
thương đa chiều nhờ vào hệ thống sông, vị trí sát biển và khí hậu phân hai mùa
rõ rệt. Những điều kiện sơ khởi trên hứa hẹn những nhân tố quan trọng tạo tiền
đề cho sự phát triển của Thị Nại về sau.
1.2. Điều kiện kinh tế- xã hội
1.2.1. Điều kiện kinh tế
• Tiềm năng kinh tế của vùng đất Bình Định
Địa hình lãnh thổ cổ xưa của mandala Champa được nhìn nhận như là một
trong những vùng đất bị chia cắt bởi các đèo, dốc và núi ven biển. Các vùng đồng
bằng nhỏ hẹp nằm ở châu thổ của những con sông ngắn, có độ đốc cao bắt nguồn
từ dãy Trường Sơn đổ ra biển, cộng thêm khí hậu nóng ẩm đã đưa tới nhận định
cho rằng kinh tế nông nghiệp của Champa là kém phát triển.
Tuy nhiên, không phải tất cả các đồng bằng ven biển đó đều là những
vùng đồng bằng kém phì nhiêu, không thuận lợi cho việc phát triển một nền
nông nghiệp bền vững. Các đồng bằng châu thổ sông Thu Bồn (thuộc tiểu quốc
Amaravati - vùng Quảng Nam ngày nay), hay đồng bằng châu thổ sông Côn
(thuộc tiểu quốc Vijaya- vùng Bình Định ngày nay) được ghi nhận như những
vùng đồng bằng trù phú. Các vùng đồng bằng châu thổ rộng lớn này đã tạo nên
nền tảng cho sự phát triển một nền kinh tế nông nghiệp mang lại các nguồn thu
ổn định và bền vững cho các tiểu quốc Amaravati và Vijaya.
Theo Đại Nam nhất thống chí thì đồng bằng lưu vực sông Côn “ruộng đất
màu mỡ, rộng rãi, xưa gọi là “Tiểu nông trại”, nhân dân đông, phẩm vật nhiều,
thuyền xe tụ tập, buôn bán đông vui, trong ngoài sông núi bao vây, đánh hay giữ
hai đường đều tiện, thật là đất xung yếu ở Tả kỳ vậy” [14, tr.11- 12]
Với đất đai màu mỡ do phù sa bồi đắp hàng năm, trên các đồng bằng
châu thổ ấy, các cư dân Champa đã tiến hành canh tác nông nghiệp. Nghề trồng
lúa vốn là sinh hoạt chính của họ và cây lúa là cây trồng quan trọng nhất của
người Chăm. Điều này được thể hiện qua các văn bia có nội dung liên quan đến
việc dâng hiến hoa màu cho các đền tháp.
11
Trong bối cảnh đặc trưng của một vùng khô, người Chăm đã có những
sáng tạo riêng của mình để thích ứng, duy trì và phát triển. Theo Thủy kinh chú,
người Chiêm Thành biết trồng lúa trên hai loại ruộng là xích điền và bạch điền.
Nhiều giống lúa Chiêm Thành nổi tiếng đã được đưa tới miền Đông Nam Trung
Quốc vào đầu thế kỷ XI là những giống lúa nhanh chín, có thể chịu được cả khô
hạn và ngập nước. Ở phía Bắc Việt Nam bây giờ trong dân gian vẫn còn nhắc
đến 35 giống lúa cấy về mùa nắng được gọi là lúa Chiêm, trong đó có hai thứ
rất quen thuộc với người nông dân là chiêm hẩm và chiêm dự. Những ghi chép
của Wang Dayuan - người được coi là đã đi hết các hải quốc ở Nam Hải vào thế
kỷ XIV cho rằng: những cánh đồng (lúa của Champa) thuộc loại thượng đẳng
và trung đẳng thích hợp cho việc trồng trọt.
Hơn thế, người Chăm là những người rất thạo trong việc làm thủy lợi,
dẫn nước vào các ruộng cao bằng hệ thống guồng nước, hay xây đắp hệ thống
đập nước để trữ nước cho nông nghiệp. Bia Lomngơ đã cho biết việc làm đập
nước, đào kênh của người Chăm.
Ở khu vực làng Phú Phong, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định vẫn còn dấu
vết của một hệ thống thủy lợi của người Chăm. Đó cũng là một hệ thống đập
bổi có kè đá. Theo tài liệu địa phương thì địa điểm xây đập phải đảm bảo độ dốc
của dòng chảy tại nơi nó bị chặn lại để đủ một lượng nước đưa vào hệ thống
mương dẫn tới từng cánh đồng. Mặt khác lòng sông suối nơi xây đập phải có
loại đá tảng để làm cửa mương tránh bị xói mòn.
Miền Trung vốn là vùng đất khô hạn, chính vì vậy, người Chăm đã biết
khai thác nguồn nước ngầm để sinh hoạt và tưới tiêu bằng cách đào giếng. Theo
các nhà nghiên cứu, đào giếng là loại hình sinh hoạt văn hóa xuất hiện sớm ở
miền Trung Việt Nam và những khảo sát điền dã, khảo cổ học dọc theo ven biển
duyên hải và hải đảo đã phát hiện một loạt hệ thống giếng Chăm cổ. Các giếng
này phổ biến loại hình giếng hình vuông làm nguồn nước công cộng cho cư dân
như giếng ở vùng Ninh Phước, Phan Rang, Bình Định ngày nay và trở thành
mặt hàng có chức năng xuất khẩu.
12

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét