
Thứ Bảy, 14 tháng 5, 2016
Nghiên cứu thành phần thiên địch của sâu hại chè trên cây chè tại hạ hoà phú thọ
CHƢƠNG 1.
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học
Việt Nam là một nƣớc nhiệt đới gió mùa với lƣợng mƣa trung bình hàng
năm khá cao 1500 - 2500mm ở vùng Trung du và miền núi rất thuận lợi cho
cây chè sinh trƣởng và phát triển. Diện tích đồi núi chiếm tới 2/3 diện tích cả
nƣớc là một trong những điều kiện thuận lợi để mở rộng diện tích trồng chè.
Tuy nhiên cây chè bị sâu hại tàn phá rất nhiều, ảnh hƣởng đến năng suất và
mẫu mã búp chè, làm mất giá, điều mà ngƣời trồng chè rất sợ hãi.
Mặt khác, đặc thù của cây chè thƣờng là trồng trên đồi cao nên rất khó
khăn cho việc chăm sóc đặc biệt là nƣớc tƣới, thậm chí chỉ vài thùng nƣớc để
pha thuốc sâu ngƣời dân cũng phải gánh rất vất vả để mang lên đƣợc đồi cao.
Vì vậy xu hƣớng của họ là chọn những loại thuốc “càng độc càng tốt” (theo
cách nói của ngƣời dân), miễn là số lƣợng ít, mang vác dễ dàng. Họ không
quan tâm đến hệ luỵ của nó đến môi trƣờng và đến sự phát triển lâu dài của
nƣơng chè và của chính thế hệ sau của họ.
Việc nghiên cứu thành phần thiên địch của các loài sâu hại để hƣớng tới
biện pháp phòng trừ tổng hợp hợp lý đem lại hiệu quả kinh tế cao và ít ảnh
hƣởng tới môi trƣờng sinh thái đang là một vấn đề bức thiết đặt ra cho ngành
chè Việt Nam. Đó là lí do tôi chọn đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề
tài này.
1.2. Những nghiên cứu trên thế giới
Thiên địch là một trong những yếu tố sinh thái ảnh hƣởng đến sự phát
sinh phát triển của sâu hại, chúng có vai trò quan trọng trong việc điều hòa số
lƣợng các loài sâu hại. Ở các nƣớc trồng chè trên thế giới, nghiên cứu và sử
dụng thiên địch trong phòng trừ sâu hại chè đã đƣợc nhiều tác giả đề cập.
3
Thành phần loài côn trùng bắt mồi của các loài sâu hại trên trên cây chè
và các nghiên cứu nhân nuôi một số loài bắt mồi phổ biến trong phòng trừ
sinh học sâu hại chè cũng đã đƣợc nhiều tác giả nghiên cứu, cụ thể là 21 loài
côn trùng bắt mồi sâu hại trên cây chè đƣợc ghi nhận, trong đó có nhiều loài
có khả năng sử dụng cho hiệu quả phòng trừ cao nhƣ bọ xít bắt mồi Oriorus
sp. và bọ mắt vàng Chrysoperla sp. (California Environmental Protection
Agency Department, 2010).
Lane Greer (2000) [15] đã ghi nhận 7 loài bắt mồi quan trọng trên trên
cây chè gồm Chrysoperla carnea, C. rufilabris, Chrysopa spp., ruồi ăn rệp
Aphidoletes aphidimyza và bọ rùa bắt mồi Hippodamia convergens. Các loài
thiên địch này là những tác nhân quan trọng và hiệu quả trong phòng trừ rệp.
Việc nghiên cứu về thành phần loài các loài côn trùng bắt mồi trên chè nhƣ:
phân loại, mô tả, xây dựng khoá định loại và ghi nhận những loài mới, cũng
nhƣ những nghiên cứu về hình thái, sinh học và sinh thái học đã đƣợc nhiều
nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu và đề cập .Theo Giacchi J. et al. (1983)
loài mới Oncocephalus quadrivittatus ở Nicaragua đã đƣợc mô tả, minh họa
và so sánh với những loài có quan hệ ở nhóm đã đƣợc phân loại.
Cranham (1961) [ 12] đã nghiên cứu cân bằng tự nhiên của dịch hại và ký
sinh trên chè, đặc biệt là sâu cuốn búp Homona coffearia và ong lý sinh
Macrocentrus homona Nixon ở Sri Lanka. Để giải thích tính chất cân bằng tự
nhiên trong nƣơng chè, tác giả đã nêu những vấn đề liên quan đến các yếu tố
về thức ăn, khí hậu, sự cạnh tranh, nơi ở cũng nhƣ ảnh hƣởng của việc dùng
thuốc hóa học gây mất cân bằng giữa sâu hại và thiên địch của chúng.
Muraleedharan và Radhakrishnan (1985) [16] cho biết đã tìm thấy nhiều
loài ruồi Syrphids ăn rệp Toxoptera aurantii trong nƣơng chè nhƣ:
(1)
Allobaccha nubilipennis (Austen)
(2)
Betasyrphus serarius (Wiedeman)
4
(3)
Dideopsis aegrota (Fabr)
(4)
Episyrphus balteatus (DeGeer)
(5)
Ischiodon scutellaris (Fabr.)
(6)
Paragus tibialis (Fallen)
Muraleedharan và Radhakrishnan (1988) [13] đã điều tra thiên địch của
nhiều loài sâu hại chè ở Kerala và Tamil Nadu (Nam Ấn Độ) bao gồm cả ký
sinh và ăn thịt. Đối với bọ trĩ, đã xác định đƣợc 2 loài ăn thịt là Aleothrips
intermedius Bagn và Mymarothrips garuda Ramak, thuộc họ Aleothripidae,
bộ Thysanopter, ăn bọ non và trƣởng thành loài bọ trĩ Scirtothrips bispinosus.
Các loại nhện lớn ăn thịt có ý nghĩa to lớn trong điều hòa quần thể sâu hại
thực vật cũng nhƣ sâu hại trên chè.
Chen Y.F. (1992) [14] cho biết sau 10 năm điều tra nhện lớn (1981 - 1990)
trên các nƣơng chè của 13 địa phƣơng vùng núi cao thuộc tỉnh Triết Giang
(Trung Quốc) đã nghi nhận tổng số 110 loài nhện lớn thuộc 21 họ và 93,7 là
thiên địch của côn trùng hại chè, 6 loài chiếm ƣu thế nhất là: Phintella
bifurcilinea;
Clubiona
deletrix;
Tetragnatha
praedonia;
Conopistha
(argyrodes) sp.; Neriene oidediccata và Neriene sp. Theo dõi trong phòng thí
nghiệm cho thấy rầy xanh (Empoasca pirisuga), bọ phấn (Aleurocanthus
spiniferus), rệp muội (Toxoptera aurantii) là những con mồi chính của các loài
nhện lớn này. Bọ xít (Lygocoris lucorum) và sâu non sâu xếp lá cũng bị chúng
ăn thịt. Đồng thời tác giả cũng khẳng định sự dao động trong quần thể sâu hại,
do tác động của thuốc trừ sâu, cảu kỹ thuật trồng trọt và yếu tố khí hậu.
1.3. Những nghiên cứu trong nƣớc
Kết quả điều tra cơ bản động vật miền Bắc Việt Nam năm 1981 đã ghi
nhận 26 loài côn trùng bắt mồi thuộc 3 bộ, 6 họ trên cây chè, trong đó đã xác
định đƣợc tên 12 loài còn 14 loài chƣa xác định đƣợc tên. (Ủy ban khoa học
Nhà nƣớc, 1981) [9]. Tại Vĩnh Phúc trong 12 loài bắt mồi trên trên một số cây
5
trồng trong đó có cây chè thuộc 5 bộ bao gồm bộ cánh cứng (Coleoptera)
chiếm số lƣợng loài lớn nhất (37,8%) (Phạm Văn Lầm và ctv, 1993) [6]. Loài
bọ xít bắt mồi Orius sauteri và Campylomma chinensis mà vật mồi là loài bọ
trĩ trên chè đã đƣợc nghiên cứu đặc điểm hình thái cũng nhƣ diễn biến mật độ
của loài bọ xít bắt mồi cũng đã đƣợc nghiên cứu (Bùi Tuấn Việt, 1993) [9].
Nhóm bọ xít bắt mồi (loài Sycanus falleni, Sycanus croceovittatus (họ
Reduviidae),
Nabis
punctatus
(họ
Nabidae),
Andrallus
spinidens,
Cantheconidae furcellata (họ Pentatomidae), Orius sauteri (họ Anthocoridae)
và Cyrtorhinus livipennis (họ Miridae) là thiên địch của nhiều loài côn trùng
gây hại trên bông, đậu tƣơng, ngô, cà tím, bầu, bí xanh, đậu đỗ, dƣa chuột,
khoai tây và cây chè (Hà Quang Hùng và ctv, 2002 [2]; Trƣơng Xuân Lam,
2000, 2002) [3,4].
Nghiên cứu đặc điểm sinh học một số loài côn trùng bắt mồi, mối quan
hệ giữa vật bắt mồi - vật mồi và biến động số lƣợng của một số loài bắt mồi
cũng đã đƣợc nghiên cứu. Các nghiên cứu về sinh học của các loài thuộc
nhóm côn trùng bắt mồi đã tập trung ở một số loài nhƣ: bọ rùa sáu vằn
Menochilus sexmaculatus, bọ rùa đỏ Micraspis discolor (họ Coccinelllidae),
bọ xít Cantheconidae furcellata (họ Pentatomidae), bọ xít Orius sauteri và
Xylocoris flavipes (họ Anthocoridae), bọ xít Cyrtorhinus livipennis (họ
Miridae) và ruồi ăn rệp Ischiodon scutellaris (họ Syrphidae) (Phạm Văn Lầm
và ctv, 1994 [7]; Hà Quang Hùng và ctv 2002 [2]; Vũ Quang Côn và ctv,
1994 [1]. Các kết quả nghiên cứu về sinh học một số loài côn trùng bắt mồi về
các đặc điểm sinh học của một số loài bọ xít bắt mồi (bọ xít cổ ngỗng đỏ
Sycanus falleni, bọ xít cổ ngỗng đen Sycanus croceovittatus, bọ xít nâu
Coranus spiniscutis Reuter thuộc họ Reduviidae, bọ xít nâu viền trắng
Andrallus spinidens thuộc họ Pentatomidae) ở các điều kiện khác nhau trong
phòng thí nghiệm (Trƣơng Xuân Lam và ctv, 2000, 2002) [4,5].
6
Các mối quan hệ khác loài là những yếu tố quan trọng đối với đời sống
của các loài côn trùng bắt mồi. Tổ hợp các quan hệ tƣơng hỗ đó thƣờng mang
tính chất ảnh hƣởng hai chiều và đƣợc gọi là sự ảnh hƣởng của các yếu tố hữu
sinh (Phạm Bình Quyền, 1994) [8]. Nghiên cứu về mối quan hệ giữa vật bắt
mồi - vật mồi của một số loài bắt mồi với con mồi thì mới đƣợc nghiên cứu
với loài bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi Sycanus croceovittatus và Sycanus
croceovittatus (vật bắt mồi) với loài sâu hại (vật mồi) và tƣơng quan của
chúng, mối quan hệ với sâu hại của loài bọ xít bắt mồi Coranus spiniscutis
Reuter (Heteroptera: Reduviidae) ở vùng Hà Nội (Trƣơng Xuân Lam và ctv,
2000, 2002) [3,4]. Đây là các công bố khá đầy đủ đầu tiên thể hiện mối quan
hệ trên điển hình là một số loài bọ xít bắt mồi với con mồi là các loài sâu hại
đƣợc thể hiện bằng mối tƣơng quan (hệ số tƣơng quan) giữa số lƣợng vật bắt
mồi và vật mồi ở các giai đoạn sinh trƣởng khác nhau của cây trồng và mối
tƣơng quan này không thể hiện giống nhau trong xuốt thời gian mà các loài
bọ xít bắt mồi xuất hiện. Quan hệ vật bắt mồi - vật mồi’’ đƣợc thể hiện qua
mối tƣơng quan không chặt (đang hình thành), tiếp theo là mối tƣơng quan
chặt (hình thành) và cuối cùng là tƣơng quan yếu (bị phá vỡ) và trong nhiều
giai đoạn nghiên cứu thì thời gian hình thành mối tƣơng quan chặt cũng rất
ngắn (Trƣơng Xuân Lam và Vũ Quang Côn, 2004) [5].
Nhận xét chung: Ở Việt Nam các nghiên cứu về côn trùng bắt mồi,
mói quan hệ giữa chúng với sâu hại chè, sử dụng côn trùng bắt mồi trong
kiểm soát sâu hại chè và các biện pháp trong quy trình quản lý tổng hợp dịch
hại chè còn rất ít, chƣa đƣợc quan tâm một cách hệ thống. Việc phòng trừ sâu
bệnh chủ yếu bằng hoá học, lạm dụng quá mức gây ra những vấn đề về tiêu
thụ, sức khoẻ và môi trƣờng, gây các chủng chống thuốc... Để phòng trừ có
hiệu quả các nhà khoa học đã bắt đầu nghiên cứu theo hƣớng xây dựng và áp
7
dụng hệ thống tổng hợp các biện pháp phòng trừ dịch hại chè nhƣ: Nguyễn
Khắc Tiến (1986) đề nghị biện pháp để lƣu xen kẽ với đốn phớt đại trà để thu
hút rầy xanh mà phun thuốc trừ sớm, sau đó cắt nhẹ lại để trừ rầy muộn trong
vụ hè thu. Lê Trƣờng Yến (2006) [10] đề xuất trồng cây che bóng để giảm
nguồn sâu hại đặc biệt là rầy xanh và bọ trĩ.
8

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét