
Thứ Ba, 10 tháng 5, 2016
Tìm hiểu văn hóa truyền thống việt nam ở đàng ngoài thế kỷ XVII qua nguồn tư liệu phương tây
Chương 1
KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH KINH TẾ - CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
Ở ĐẢNG NGOÀI THỂ KỈ XVII
Đầu thế kỉ XVI, nhất là sau khi Lê Hiến Tông mất, xã hội Đại Việt mất
dần cảnh thịnh trị, kinh tế sa sút, nhân dân sống cực khổ, các thế lực phong
kiến tranh chấp lẫn nhau mở đầu cho một giai đoạn mới của chế độ phong
kiến Việt Nam – giai đoạn của những biến cố, khủng hoảng trên nhiều mặt từ
tình hình chính trị, xã hội đến kinh tế. Báo hiệu cho một thời kì đầy sóng gió
của lịch sử phong kiến Việt Nam.
Trước hết là hình ảnh của những ông “vua quỷ”, “vua lợn” như Lê Hiến
Tông, Lê Uy Mục, Lê Tương Dực. Hiến Tông “vì ham nữ sắc quá nhiều” chết
sớm, Lê Uy Mục sao nhãng việc triều chính, “đêm cùng cung nhân uống rượu
vô độ, ai say thì giết”, đến nỗi một viên sứ thần Trung Quốc đã phải gọi là
“vua quỷ”. Vua mới là Lê Tương Dực lên ngôi cũng tỏ ra xa đọa không kém,
“hoang dâm vô độ”. Xứ thần Trung Quốc nhận xét “nhà vua tính hiếu dâm
như tướng lợn, loạn vong không còn lâu nữa”.
Sự thối nát không chỉ ở Trung ương mà bọn quan lại địa phương mặc
sức tung hoành nhũng nhiễu nhân dân, đến nỗi ở phố xá, chợ búa hễ thấy
bóng quan thì dân vội đóng cửa, và tìm đường ẩn trốn. Trong bài hịch của
Lương Đắc Bằng có đoạn tố cáo bọn quan lại: “tước đã hết mà lạm thưởng
không hết, dân đã cùng mà lạm thu không cùng, phú thuế thu đến tơ tóc mà
dùng của như bùn đất”.
Một bức tranh chính trị - xã hội đen tối. Sự sa đọa từ chính quyền trung
ương đến bọn quan lại địa phương là thời cơ thuận lợi cho sự nổi dậy của các
thế lực phong kiến. Một loạt các phong trào đấu tranh nổ ra làm lung lay đến
6
tận gốc rễ của triều đình phong kiến vốn đã thối nat. Đó là sự nổi dậy của
nhóm Nguyễn Văn Lang và tôn thất nhà Lê ở Thanh Hóa năm 1509, hoạn
quan Nguyễn Khắc Hài làm loạn, nhốt vua vào cung,uy hiếp triều đình. Năm
1516, quận công Trịnh Duy Sản cùng bọn Lê Quảng Độ âm mưu giết vua và
một số quan lại. Trong triều vua quan âm mưu hãm hại lẫn nhau, ở địa
phương các cuộc đấu tranh của nông dân nổ ra mạnh mẽ.
Năm 1511, Thân Duy Nhạc, Ngô Văn Tổng dấy quân nổi lên ở Kinh
Bắc. Trần Tuân nổi dậy ở Sơn Tây.
Năm 1512, Nguyễn Nghiêm nổi dậy ở Sơn Tây, Hưng Hóa; Lê Hy,
Trịnh Hưng, Lê Minh Triết nổi quân ở Nghệ An.
Năm 1515, Phùng Chương nổi dậy ở vùng Tam Đảo; Đặng Hân, Đặng
Ngật nổi dậy ở Ngọc Sơn (Thanh Hóa).
Đặc biệt là cuộc nổi dậy của Trần Cảo năm 1516, ông đã tự lập làm
vua, đặt thiên hiệu là Thiên Ứng. Không lâu sau thì bị quân triều đình dập tắt.
Tình hình chính trị rối ren là thời cơ thuận lợi cho sự tranh đoạt vương
quyền của các thế lực phong kiến. Nhà Mạc đã được thành lập trong hoàn
cảnh đó. Dù đã cố gắng, song Mạc Đăng Dung luôn vấp phải sự chống đối
mạnh mẽ của các thế lực, đặc biệt là từ các cựu thần nhà Lê. Sự chống đối
ngày càng trở nên gay gắt và quyết liệt mà đỉnh điểm là hình thành nên cuộc
chiến tranh giữa triều đình nhà Lê mới được thành lập ở Thanh Hóa với nhà
Mạc mà sử gọi là chiến tranh Nam triều – Bắc triều. Cuối năm 1583, cuộc
chiến kết thúc với sự sụp đổ của nhà Mạc.
Tình trạng Nam triều – Bắc triều chấm dứt chưa được bao lâu thì xảy ra
sự phân chia Đàng Trong – Đàng Ngoài. Một cuộc chiến tranh mới lại bùng
nổ.
Mầm mống của sự phân liệt bắt nguồn từ trong cuộc chiến tranh Nam –
Bắc triều. Năm 1545, sau khi Nguyễn Kim bị mưu sát, Trịnh Kiểm được vua
7
Lê đưa lên thay thế, chỉ huy mọi việc. Để giữ vững quyền hành của mình,
Trịnh Kiểm nhanh chóng tìm cách loại trừ các thế lực chống đối mình. Trước
tình hình đó, Nguyễn Hoàng xin vào đất Thuận Hóa với mục đích tránh được
âm mưu của Trịnh Kiểm, đồng thời xây dựng cơ nghiệp, chờ thời cơ báo thù.
Tại đây ông đã gây dựng lên cơ nghiệp, thế và lực ngày càng mạnh.
Dần đối đầu với họ Trịnh. Năm 1613, trước khi chết, Nguyễn Hoàng dặn lại
con là Nguyễn Phúc Nguyên: “ Đất Thuận Quảng phía bắc có Hoành Sơn và
Linh Giang, phía nam có núi Hải Vân và Thạch Bi, địa thế hiểm cố, thật là
một nơi để cho người anh hùng dựng võ. Nếu biết dậy bảo nhân dân, luyện
tập binh sĩ kháng cự lại họ Trịnh thì gây được cơ nghiệp muôn đời”.
Lối nghiệp cha, Nguyễn Phúc Nguyên đã dần tách khỏi sự phụ thuộc
vào họ Trịnh. Lấy cớ Nguyễn Phúc Nguyên không nộp thuế nữa, họ Trịnh
đem quân vào đánh Thuận Hóa vào năm 1627. Cuộc chiến tranh Trịnh Nguyễn bắt đầu.
Cuộc chiến tranh kéo dài gần nửa thế kỉ, hai bên đánh nhau 7 lần mà
không có kết quả gì, lại tổn hao quân sĩ, nhân dân cực khổ vì vậy hai họ Trịnh
– Nguyễn đành phải ngừng chiến tranh, lấy sông Gianh làm giới hạn chia cắt
Đàng Ngoài – Đàng Trong.
Như vậy, sự phân chia Đàng Trong – Đàng Ngoài là kết quả của một
quá trình chanh chấp của các thế lực phong kiến. Chiến tranh giữa các thế lực
đó là không tránh khỏi, song nó không thể giải quyết được xu thế phân liệt đã
hình thành. Sự phân liệt Đàng Trong – Đàng Ngoài kéo dài từ giữa thế kỉ XVI
đến những năm cuối thế kỉ XVIII đã làm thay đổi khá nhiều tình hình kinh tế,
chính trị, đời sống của nhân dân hai miền.
Trong phần đầu bài viết này tôi xin tìm hiểu về tình hình chính trị, xã
hội, kinh tế của Đàng Ngoài thế với những nét khái quát nhất.
8
1.1.
Tình hình chính trị - xã hội
Về tình hình chính trị:
Năm 1527, Mặc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê. Sự chống đối tiêu cực
của triều thần nhà Lê chứng tỏ sứ mạng lịch sử của nhà Lê đã hết. Tuy nhiên,
họ Mạc chưa gây dựng được uy thế vững chắc của vương triều mới, mà một
tập đoàn có đủ uy tín hơn thì chưa xuất hiện, vì vậy vai trò và ảnh hưởng của
nhà Lê vẫn khá sâu sắc trong các tầng lớp xã hội. Nguyễn Kim dấy binh
chống Mạc cũng phải giương lá cờ phù Lê. Từ năm 1545, binh quyền rơi vào
tay Trịnh Kiểm, vua Lê có vị mà không có quyền. Trịnh Kiểm muốn tìm cơ
hội tiếm ngôi, nhưng cuộc chiến tranh với nhà Mạc dưới danh nghĩa “phù Lê”
chưa cho phép Trịnh Kiểm thực hiện âm mưu của mình. Năm 1570, Trịnh
Kiểm chết, quyền hành về tay Trịnh Tùng, địa vị vua Lê càng sút kém, việc
phế lập ngôi vua do chúa Trịnh quyết định.
Sau khi đánh thắng nhà Mạc, giành lại Thăng Long, họ Trịnh càng tự
tôn và lấn át vua Lê, Trịnh Tùng đặt lệ chọn thế tử nối nghiệp ngang với thể
thức của hoàng tộc. Con cháu Trịnh Tùng lên làm chúa đều theo lệ xưng
vương. Năm 1664, Trịnh Tạc buộc vua Lê phải đặt thêm một chiếc ngai bên
trái ngai vua để ngự trong các buổi chầu. Trong thực tế, ngay từ thời Trịnh
Tùng, vua Lê chỉ là một ông vua bù nhìn không còn quyền hành nữa. Công
việc hằng năm của vua Lê chỉ là dự lễ chầu và đón tiếp các sứ thần. Mọi việc
hệ trọng trong nước đều do phủ chúa quyết định. Giáo sư Pháp Alexandre de
Rhodos sang truyền đạo ở nước ta khoảng 1624 – 1645 nói về Đàng Ngoài:
“Xứ này thực là một nước quân chủ thực sự, hơn nữa lại có hai vua. Một gọi
là vua nhưng chỉ có danh mà thui, còn ông chúa kia thì có đủ quyền hành.
Vua chỉ ra mắt vào những ngày nhất định như ngày đại lễ đầu năm, ngoài ra
vua chỉ ru rú trong một ngôi điện cổ kính, kéo dài cuộc đời nhàn tản vô vị,
trong khi ông chúa cai quản tất cả công việc chiến tranh hòa bình”. Tình trạng
9
gian dối trong thi cử là một hiện tượng khá nổi bật. Theo Lê Quý Đôn, vào
đầu thời Lê – Trịnh “phép thi hương sơ lược, mang sách hoặc bài vở vào
trường cũng không ngăn cấm” (Kiến văn tiểu lục). Từ năm 1660, lại còn nảy
sinh nhiều tệ nạn khác như mua bài làm sẵn mang vào trường thi, chép lại bài
cũ, đút lót quan trường…kẻ bất tài mà đỗ đạt ngày một nhiều.
Ngoài các khoa thi, họ Trịnh còn đặt phép tiến cử. Những lúc thiếu
tiền, thóc, chúa Trịnh ra lệnh bán quan tước cho nhà giàu. Năm 1658, Trịnh
Tạc quy định: ai nộp thóc thì tùy theo nhiều ít mà bổ quan chức theo thức bậc
khác nhau. Cho đến giữa thế kỉ XVIII, tình trạng mua quan bán tước trở nên
phổ biến.
Với cách lựa chọn quan lại như trên, số quan tăng lên gấp bội. Những
nhà chép sử đương thời thấy rằng số quan có thực quyền không quá 500, còn
thì chỉ là hư vị, làm quan cầu may và chỉ lo bóc lột, nhũng nhiễu nhân dân. Có
năm chúa Trịnh bổ nhiệm một lúc 1238 viên quan trong kinh và ngoài các
trấn. Sử cũ chép: “bấy giờ chức quan nhũng lạm, phức tạp, một lúc cất nhắc
bổ dụng đến hơn 1000 người, làm quan cầu may, viên chức thừa thãi không
còn phân biệt gì cả”.
Số lượng quan lại nhiều mà đặc quyền của họ cũng rất lớn… Các quan
cao cấp được cấp ruộng lộc, ruộng dưỡng liêm…, ngoài ra được cấp bổng lộc
bằng tiền tùy theo cấp bậc hoặc kết quả thi cử.
Một vấn đề đặt ra cho họ Trịnh là phải luôn luôn có một lực lượng quân
sự mạnh, đủ sức chấn áp mọi sự phản kháng. Chế độ “ngụ binh ư nông”
không còn tác dụng nữa vì tình hình ruộng đất, nhất là tịnh trạng ruộng đất
công ở làng xã bị địa chủ cướp đoạt nghiêm trọng, không cho phép nhà nước
tiếp tục thi hành chế độ đó.
Ban đầu, họ Trịnh vẫn giữ năm phủ như thời Lê, sau lại đặt năm quân
doanh, chia làm cơ, đội. Quân lính chủ yếu tuyển ở vùng Thanh, Nghệ. Trong
10
cuộc duyệt binh năm 1595, lực lượng quân đội họ Trịnh có 12 vạn người. Từ
năm 1600 trở đi, họ Trịnh quy định: lính túc vệ ở kinh thành chỉ lấy người ở
ba phủ Thanh Hóa và 12 huyện thuộc Nghệ An. Đây là bộ phận quân chủ lực,
rất được chúa Trịnh ưu đãi, cấp cho nhiều ruộng tiền, nhân dân gọi là lính
“tam phủ” hay “ưu binh”.
Tình trạng “vua Lê – chúa Trịnh” còn đè nặng lên đầu nhân dân bằng
một bộ máy quan lại cồng kềnh. Ở trung ương cơ quan hành chính cao nhất là
ngũ phủ và phủ liêu gọi tắt là phủ đường. Ban đầu, phủ đường được tổ chức
thành 3 phiên, trông coi mọi việc quân sự, thu thuế trong kinh và ở các trấn;
sau đổi thành 6 phiên, nắm quyền chi phối mọi mặt hoạt động của nhà nước
quân chủ.
Trong lúc đó phía triều đình vua Lê (tuy chỉ là bù nhìn) vẫn giữ nguyên
hệ thống quan lại cũ, với các chức tam thái, tam thiếu, và các thượng thư của
sáu bộ.
Nhằm nắm chắc quân đội, chúa Trịnh phong cho các con làm Tiết chế
hay Nguyên soái, thống lĩnh toàn quân. Rõ ràng là ở trung ương, mọi quyền
hành thực sự đều nằm trong tay phủ chúa.
Kế tục của nhà Lê sơ, cách lựa chọn quan lại của thời Lê – Trịnh vẫn
chủ yếu thông qua khoa cử. Những người đỗ đạt được bổ xung cất nhắc tùy
khả năng và thái độ với phủ chúa. Các khoa thi liên tiếp được tổ chức, ngay cả
những năm tình hình xã hội không ổn định. Tuy nhiên những người được
phép thi hương phải được xét lí lịch từ cấp xã, huyện, châu. Số người được dự
thi cũng hạn chế tùy theo xã lớn hay nhỏ. Số người được đỗ tiến sĩ cũng được
quy định theo từng năm, nói chung mỗi kì thi chỉ lấy được dăm bảy tiến sĩ.
Để đào tạo tướng giỏi, chúa Trịnh cho lập trường Giảng võ dạy binh
pháp và mở các khoa thi võ, ai trúng tuyển thì được gọi là Tạo sĩ (ngang với
Tiến sĩ). Với chính sách tuyển lựa quan lại như trên, các chúa Trịnh đánh
11

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét