
Thứ Ba, 24 tháng 5, 2016
Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh lý, hóa sinh của 2 giống lúa nếp n97 và BN4 khi nảy mầm ở nhiệt độ khác nhau
Khóa luận tốt nghiệp
Vũ Thị Vân K33C - Sinh
Quá trình sinh trưởng và phát triển của cây lúa kể từ khi hạt nảy mầm tới
khi hạt chín hoàn toàn kéo dài từ 60 đến 250 ngày phụ thuộc vào rất nhiều
điều kiện. Trong thời gian đó, cây lúa trải qua các thời kì sinh trưởng và các
giai đoạn phát triển khác nhau. Tùy từng giai đoạn sinh trưởng, phát triển của
cây lúa mà nhiệt độ giới hạn thấp biến động từ 10 - 200C; nhiệt độ giới hạn
cao biến động từ 30 - 450C và nhiệt độ tối thích biến động từ 20 - 300C [37].
Trong mỗi thời kỳ, giai đoạn không chỉ có những biến đổi về lượng mà còn
có cả biến đổi về chất để hoàn thành chu kỳ sinh trưởng, phát triển của nó.
Trước đây, có một số cách phân chia thời kỳ sinh trưởng của cây lúa
khác nhau nhưng đến nay các nhà khoa học thống nhất chia thời kì sinh
trưởng của cây lúa làm 3 thời kỳ:
- Thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng (nảy mầm, mạ, bén rễ hồi xanh, đẻ
nhánh, làm đốt).
- Thời kỳ sinh trưởng sinh thực (làm đòng, trổ bông, nở hoa, thụ phấn, thụ
tinh).
- Thời kỳ hình thành hạt và chín (hạt chín hoàn toàn) [37], [39].
1.3. Vai trò của cây lúa và tình hình sản xuất lúa gạo
1.3.1. Vai trò của cây lúa
Cây lúa là cây lương thực lâu đời nhất, phổ biến nhất. Trên thế giới, về
mặt diện tích gieo trồng, lúa đứng thứ 2 sau lúa mì; về tổng sản lượng, lúa
đứng thứ ba sau lúa mì và ngô [5].
Sản phẩm thu được từ cây lúa là thóc. Sau khi xát bỏ lớp vỏ ngoài thu
được sản phẩm chính là gạo và các phụ phẩm là cám và trấu. Gạo là nguồn
lương thực chủ yếu của hơn một nửa dân số thế giới (chủ yếu ở châu Á và
châu Mỹ La Tinh). Ở một số nước châu Á như Băng-la-det, Sri-lan-ca, Việt
Nam, Cam-pu-chia… lúa là lương thực chính hàng ngày của 90% dân số cả
nước, con số này ở In-dô-nê-si-a, Thái Lan là 80%; Phi-lip-pin, Hàn Quốc là
6
Khóa luận tốt nghiệp
Vũ Thị Vân K33C - Sinh
75%, Ấn Độ là 65% và Trung Quốc là 63%. Điều này làm cho nó trở thành
loại lương thực được con người tiêu thụ nhiều nhất [36], [40].
Tinh bột gạo là nguồn cung cấp calo chủ yếu để duy trì sự sống cho con
người. Nguồn cung cấp calo từ gạo đã duy trì sự sống cho khoảng 40% dân số
thế giới. Tổng lượng calo trung bình trên thế giới cần khoảng 3119
calo/người/ngày, trong đó lúa gạo cung cấp 552 calo/người/ngày chiếm 18%
tổng lượng calo cung cấp cho con người [36].
So với loại ngũ cốc khác, hạt gạo có ưu thế về lượng chất dinh dưỡng
trong việc cung cấp năng lượng cho con người và các động vật khác. Gạo
chứa khoảng 90% gluxit, đây là chất cung cấp năng lượng chủ yếu cho các
hoạt động của con người. Trong hạt gạo protein đứng ở vị trí thứ 2 trong số
những chất dự trữ của hạt (chiếm 7 – 10%). Đó là những hợp chất đơn giản
gồm các axit amin, glutation… hoặc những hợp chất phức tạp như albumin,
globulin, glutelin, promalin [1]. Hàm lượng xenlulozơ trong gạo cao làm cho
gạo là loại thức ăn dễ tiêu hóa, hệ số tiêu hóa cao. Hạt lúa có hàm lượng lipit
thấp (chiếm 1 – 3%). Ngoài ra nội nhũ của hạt lúa còn chứa các vitamin như:
các vitamin nhóm B, vitamin PP và các loại khoáng chất cần thiết cho cơ thể
như Ca, P, Fe... [15]. Ngoài ra, các bộ phận khác của cây lúa cũng có rất
nhiều lợi ích: rơm, rạ làm chất đốt hoặc thức ăn dự trữ cho chăn nuôi trâu bò;
thân cây sau khi thu hoạch được cày vùi làm phân bón; trấu dùng để độn
chuồng và là nguyên liệu giá thể để giâm cành các loại hoa; rơm rạ dùng để
làm giá thể nuôi nấm (nấm rơm, nấm sò), vật liệu xây dựng, sản xuất giấy…
Gạo còn dùng để sản xuất bia, rượu, cồn, làm bánh kẹo, axeton, thuốc
chữa bệnh; cám được sử dụng nhiều trong chăn nuôi gia súc, nuôi trồng thủy
sản, dùng trong dược phẩm (sản xuất thuốc B1), mĩ phẩm, sơn… Vì vậy lúa
gạo đã trở thành mặt hàng có giá trị xuất khẩu.
7
Khóa luận tốt nghiệp
Vũ Thị Vân K33C - Sinh
Ở Việt Nam, lúa là cây lương thực hàng đầu cung cấp năng lượng duy trì
sự sống cho người dân. Nó giữ vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an toàn
lương thực. Ngoài ra, còn là cây trồng đóng góp giá trị lớn nhất trong ngành
nông nghiệp. Theo số liệu của FAO (1999) cho thấy trong 7,3 triệu ha được
sử dụng cho nông nghiệp thì có 3,4 triệu ha dành cho trồng lúa. Lúa vẫn là
cây trồng chủ lực chiếm tới 82% diện tích đất canh tác và cung cấp 93% tổng
cộng hạt lương thực và lúa gạo được sản xuất chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu
Long và đồng bằng sông Hồng. Chỉ riêng đồng bằng sông Cửu Long đã cung
cấp hơn 50% sản lượng gạo cả nước và 90% sản lượng gạo xuất khẩu (FAO,
1999) [38].
1.3.2. Tình hình sản xuất lúa gạo
Cây lúa có khả năng thích ứng rộng với những điều kiện sinh thái khác
nhau nên phạm vi trồng lúa trên thế giới phân bố rất rộng, từ 530 vĩ Bắc đến
530 vĩ Nam, từ vùng thấp đến vùng cao, từ những vùng nóng ẩm của Ấn Độ
đến các vùng sa mạc có tưới ở Pakistan và ở độ cao 2500m so với mặt nước
biển. Lúa có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau và độ pH từ 3 – 10 [6].
Hiện nay, trên thế giới có 114 nước trồng lúa, phân bố trên tất cả các
châu lục nhưng tập trung nhiều nhất vẫn là châu Phi với 41 nước và châu Á
với 30 nước, tiếp đến là Bắc Trung Mỹ có 14 nước, Nam Phi có 13 nước,
châu Âu có 11 nước và châu Đại Dương có 5 nước (FAO, 2006) [38].
Về sản lượng, theo nguồn số liệu của FAO năm 2006, sản lượng lúa toàn
thế giới đạt trên 600 triệu tấn (2005) trong đó nhiều nhất là châu Á (xấp xỉ
560 triệu tấn) và ít nhất là châu Đại Dương (1,344 triệu tấn) [38].
Ở Việt Nam lúa là cây trồng chủ lực chiếm vị hàng đầu trong các cây
lương thực nói riêng và cây trồng nông nghiệp nói chung, là nguồn lương
thực chủ yếu nuôi sống người Việt Nam. Mặc dầu trong 34 năm qua (1975 2009) dân số nước ta từ 48 triệu người (1975) tăng lên 86 triệu người (giữa
8
Khóa luận tốt nghiệp
Vũ Thị Vân K33C - Sinh
năm 2009), nhưng sản lượng thóc đã tăng từ 10,3 triệu tấn (1975) tăng lên
38,729 triệu tấn (2008) nên nguồn lương thực của xã hội rất dồi dào, đảm bảo
an toàn lương thực cho xã hội, còn làm thức ăn cho chăn nuôi và dư thừa để
xuất khẩu [19].
Bảng 1.1 Diện tích năng suất và sản lượng lúa qua các năm
Năm
Diện tích
Năng suất
Sản lượng
(nghìn ha)
(tạ/ha)
(nghìn tấn)
2000
7666,3
-
32529,5
2001
7492,7
-
32108,4
2002
7505,3
-
34447,2
2003
7452,2
-
34568,8
2004
7445,3
-
36148,9
2005
7329,2
48,90
35832,9
2006
7324,8
48,90
35849,5
2007
7207,4
49,90
35942,7
2008
7400,2
52,30
38729,8
Nguồn: niên giám thống kê 2009 [19]
Như vậy, từ năm 2000 đến năm 2008 năng suất và sản lượng lúa ở nước
ta có chiều hướng gia tăng, năm sau cao hơn năm trước.
Tuy nhiên, tỉ lệ tăng và sự phân bố ở các vùng kinh tế khác nhau là khác
nhau. Vùng có diện tích lớn nhất là Đồng bằng Sông Cửu Long, chiếm tới
52,15% tổng diện tích trồng lúa cả nước và do đó cũng chiếm tới 53,37% sản
lượng cả nước. Vùng có diện tích thấp nhất là các vùng Tây Nguyên và Đông
Nam Bộ có diện tích 211300 – 307700 ha và sản lượng chỉ đạt 935200 –
1313100 tấn. Về năng suất, trung bình cả nước đạt 52,3 tạ/ha trong đó vùng
có năng suất bình quân cao nhất là Đồng Bằng Sông Hồng (58,9 tạ/ha). Tiếp
đó là vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long (53,6 tạ/ha), rồi lần lượt đến Bắc
9
Khóa luận tốt nghiệp
Vũ Thị Vân K33C - Sinh
Trung Bộ và duyên hải miền Trung (50,5 tạ/ha), Tây Nguyên (44,3 tạ/ha),
trung du miền núi phía Bắc (44,1 tạ/ha). Và vùng có năng suất thấp nhất là
Đông Nam Bộ (42,8 tạ/ha) [19]. Theo số liệu thống kê của tổng cục thống kê,
tính đến năm 2008 nước ta xuất khẩu khoảng 4,5 triệu tấn gạo [19].
Tuy nhiên nông nghiệp Việt Nam cũng đang đứng trước những thách
thức lớn. Sản lượng lương thực bình quân năm 2008 là 508,7 kg/người nhưng
ở những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người có nhiều khó
khăn bình quân lương thực vẫn còn thấp dưới 100 kg/người [19]. Bởi vậy,
trong tương lai gần sản xuất lương thực nhất là lúa ở nước ta cũng đang là
một yêu cầu cần được quan tâm đúng mức để lúa gạo trở thành sản phẩm
hàng hóa có chất lượng cao.
2. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến cây lúa
2.1. Tác hại của nhiệt độ đến sự nảy mầm của hạt lúa và quá trình phát
triển của cây lúa
Trong điều kiện bảo quản, độ ẩm trong hạt khoảng 13 – 13,5% hạt lúa ở
trong trạng thái ngủ nghỉ. Khi ngâm hạt giống vào nước, hạt hút nước, độ ẩm
trong hạt tăng lên. Hạt hút no nước thì mới có thể nảy mầm (hạt no nước là
hạt hút lượng nước khoảng 25 – 30% khối lượng khô của hạt) [7]. Ngay sau
đó một loạt các quá trình trao đổi chất xảy ra, các enzyme bắt đầu hoạt động
phân hủy các chất dự trữ trong hạt như hydratcacbon, lipid, protein tạo ra
năng lượng cung cấp cho quá trình nảy mầm.
Khi hạt nảy mầm, đầu tiên là một khối trắng (tiền thân của mầm và rễ
phôi) xuất hiện phá vỏ trấu ra ngoài (gọi là hạt nứt nanh) tiếp đến là mầm xuất
hiện và cuối cùng là rễ phôi (còn gọi là rễ mầm, rễ mộng). Mầm xuất hiện
trước hết là lá bao hình vảy (mũi chông) thứ đến là lá không hoàn toàn (chỉ có
bẹ lá không có phiến lá) không có diệp lục, cuối cùng mới xuất hiện lá thật có
đầy đủ bẹ lá, phiến lá và có khả năng hình thành diệp lục. Trong quá trình nảy
10
Khóa luận tốt nghiệp
Vũ Thị Vân K33C - Sinh
mầm, từ khi hạt nứt nanh cho đến khi hạt có 3 lá thật là thời kỳ cây lúa non sử
dụng chất dự trữ trong hạt; chỉ từ khi cây có 4 lá thật trở lên, có 4 – 5 rễ phụ
thì mới có thể sống hoàn toàn tự lập [37].
Quá trình nảy mầm của hạt lúa có liên quan mật thiết tới các yếu tố khí
hậu như: nước, oxy… đặc biệt là nhiệt độ. Hạt lúa muốn nảy mầm cần có
nhiệt độ thích hợp. Nhiệt độ thấp nhất để hạt lúa có thể nảy mầm được là
120C; nhiệt độ tối thích là 30 – 350C hạt lúa nảy mầm tốt nhất, nảy mầm
nhanh và tập trung; tối cao là 400C. Tuy nhiên nhiệt độ 12 – 200C hạt lúa nảy
mầm rất chậm và không đều [5] do nhiệt độ hạ thấp mầm không lấy được
nước, bị mất cân bằng nước và bị héo sinh lý, các phản ứng hóa sinh khác
nhau trong mỗi tế bào của cơ thể cũng bị thay đổi gây rối loạn trao đổi chất,
cây có thể tích lũy các chất độc hại đối với tế bào. Hơn nữa nhiệt độ thấp
cũng làm hủy hoại một số chất trong tế bào, từ đó cũng ảnh hưởng nghiêm
trọng đến đời sống của cây. Còn nếu nhiệt độ cao, trong phạm vi từ 28 – 350C
thì lúa sinh trưởng nhanh, nảy mầm nhanh nhưng chất lượng kém [5].
Tùy từng giai đoạn phát triển của cây và tùy từng giống lúa mà ảnh
hưởng của nhiệt độ có khác nhau. Phạm vi thích ứng của cây lúa đối với nhiệt
độ tối thấp (nhiệt độ giới hạn thấp: từ 10 – 200C) và tối cao (nhiệt độ giới hạn
cao: 30 – 450C) cũng như nhiệt độ tối thích (20 – 300C) qua từng giai đoạn
phát triển của cây lúa cũng khác nhau.
Nhiệt độ giới hạn thấp và nhiệt độ giới hạn cao là ngưỡng nhiệt độ mà
nếu vượt khỏi ngưỡng đó thì quá trình sinh trưởng của cây lúa bị dừng lại, cây
có thể bị chết. Nhiệt độ tối thích là ngưỡng nhiệt độ mà ở khoảng nhiệt độ đó
cây lúa sinh trưởng phát triển tốt nhất.
11

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét