
Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2016
Nghiên cứu hệ thống cây trồng tại xã việt thống, huyện quế võ, tỉnh bắc ninh
- Việc xác định, đề xuất và thử nghiệm một số biện pháp kỹ thuật cho
hệ thống trồng trọt ở xã Việt Thống là một trong những cơ sở quan trọng
trong việc xác định và áp dụng các biện pháp kỹ thuật mới, các cơ cấu luân
canh cây trồng hợp lý và bền vững ở các huyện khác của huyện Quế Võ, cũng
như tỉnh Bắc Ninh và các vùng khác có điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội
tương tự trong cả nước.
b. Ý nghĩa thực tiễn
- Việc thực hiện đề tài góp phần nâng cao nhận thức và trình độ sản
xuất của người dân. Nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp,
phát triển kinh tế xã hội cho xã Việt Thống, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
- Đáp ứng được nhu cầu lương thực, thực phẩm an toàn ngày càng cao
của nhân dân trong vùng cũng như góp phần cung cấp cho các đô thị xung
quanh đồng thời tạo nên một vùng hàng hoá xuất khẩu.
3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Quan điểm về hệ thống
Lý thuyết hệ thống đã được ứng dụng rất rộng rãi trong công tác nghiên
cứu khoa học nông nghiệp cũng như nhiều lĩnh vực khác khác nhau.
Hệ thống là một tổng thể có trật tự của các yếu tố khác nhau có quan hệ
và tác động qua lại. hệ thống không phải là phép cộng đơn giản của các yếu
tố, các đối tượng mà là sự kết hợp hữu cơ giữa các yếu tố, các đối tượng. Mỗi
hệ thống bao gồm nhiều hệ thống nhỏ hợp thành, đến lượt mình, nó lại là bộ
phận cấu thành của hệ thống lớn hơn [7].
Các yếu tố bên ngoài hệ thống nhưng có tác động tương tác với hệ
thống gọi là yếu tố môi trường. Những yếu tố môi trường tác động lên hệ
thống gọi là yếu tố đầu vào, những yếu tố môi trường chịu sự tác động trở lại
của hệ thống gọi là yếu tố đầu ra.
Theo Hoàng Tụy, 1987 [15], phép biến đổi của hệ thống là khả năng
thực tế khách quan của hệ thống trong việc biến đổi đầu vào thành đầu ra.
Thực trạng của hệ thống là khả năng kết hợp giữa đầu vào và đầu ra của hệ
thống tại một thời điểm nhất định. Mục tiêu là trạng thái mà hệ thống mong
muốn và cần đạt tới. Hành vi của hệ thống là tập hợp các đầu ra của hệ thốn
có được trên cơ sở các giải pháp thích hợp đem lại hiệu quả cao cho cả hệ
thống. Cơ cấu của hệ thống bao gồm sự sắp xếp các phần tử, các yếu tố trong
hệ thống cùng các mối quan hệ tác động và ràng buộc giữa chúng.
Hiện nay nghiên cứu hệ thống có hai phương pháp cơ bản:
- Nghiên cứu hoàn thiện hoặc cải tiến một hệ thống đã có sẵn. Thông
qua phương pháp phân tích hệ thống nhằm tìm ra điểm hẹp hay chỗ thắt lại
của hệ thống cần sửa chữa, khai thông để hệ thống hoàn thiện hơn, hoạt động
có hiệu quả hơn.
4
- Nghiên cứu xây dựng hệ thống mới, phương pháp này mang tính
chất vĩ mô đòi hỏi có sự tính toán, cân nhắc kỹ càng.
1.1.2. Cơ sở lý luận về hệ thống nông nghiệp
Ngày nay khái niệm về HTNN không còn mới mẻ với rất nhiều nước
trên thế giới. Tuy nhiên khái niệm về HTNN có thể nhìn từ nhiều góc độ
khác nhau và sự áp dụng vào nghiên cứu phát triển nông thôn cũng khác
nhau ở mỗi nước. Theo Phạm Trí Thành và cs, 1996 [12] đến nay đã có một
số định nghĩa về hệ thống nông nghiệp như sau:
HTNN là sự biểu hiện không gian của sự phối hợp các nghành sản xuất
và kỹ thuật do một xã hội thực hiện để thỏa mãn các nhu cầu. Nó biểu hiện sự
tác động qua lại giữa hệ thống sinh học- sinh thái mà môi trường tự nhiên là
đại diện và hệ thống xã hội-văn hóa qua các hoạt động xuất phát từ những
thành quả kỹ thuật (Vissac, 1979).
HTNN trước hết là một phương thức khai thác môi trường được hình
thành và phát triển trong lịch sử, một hệ thống sản xuất thích ứng với các điều
kiện sinh thái khí hậu của một không gian nhất định, đáp ứng với các điều
kiện và nhu cầu của thời điểm đó (Mozoyer, 1986).
HTNN thích ứng với các phương thức khai thác nông nghiệp của không
gian nhất định do một xa hội tiến hành, là kết quả của sự phối hợp các nhân tố
tự nhiên, xã hội - văn hóa, kinh tế và kỹ thuật ( Touve, 1988).
Theo Đào Thế Tuấn, 1989 [13] HTNN về thực chất là sự thống nhất
của 2 hệ thống: (1) HTNN là một bộ phận của hệ sinh thái tự nhiên, bao gồm
các vật sống ( cây trồng, vật nuôi), trao đôi năng lượng, vật chất và thông tin
với ngoại cảnh, tạo nên năng suất sơ cấp (trồng trọt) và thứ cấp(chăn nuôi)
của hệ sinh thái;(2) Hệ kinh tế - xã hội, chủ yếu là hoạt động của con người
trong sản xuất để tạo ra của cải vật chất cho toàn xã hội.
5
1.1.3. Cơ sở lý luận về hệ thống cây trồng
Hiện nay, có nhiều khái niệm về hệ thống cây trồng:
HTCT là thành phần các giống và loài cây được bố trí trong không gian
và thời gian trong mọi hệ thống sinh thái nông nghiệp nhằm tận dụng hợp lý
nhất các nguồn lợi tự nhiên, kinh tế xã hội (Đào Thế Tuấn 1984) [14].
HTCT là hình thức đa canh bao gồm: trồng xen, trồng gối, trồng luân
canh, trồng thành băng, canh tác hỗn hợp, vườn hỗn hợp các loại cây. HTCT
hay công thức luân canh là tổ hợp trong không gian và thời gian của các cây
trồng trên một mảnh đất và các biện pháp canh tác để sản xuất chúng
(Zandazardatra).
Như vậy, HTCT là một thể thống nhất trong mối quan hệ tương tác
giữa các loại cây trồng được bố trí hợp lý trong không gian và thời gian tức là
mối quan hệ giữa các loại cây trồng trong từng vụ và giữa các vụ khác nhau
trên một mảnh đất, trong một hệ sinh thái. Vì vậy, nghiên cứu HTCT là
nghiên cứu: công thức luân canh và hình thức đa canh, cơ cấu cây trồng hay
tỷ lệ diện tích dành cho mùa vụ cây trồng nhất định, kỹ thuật canh tác cho cả
hệ thống canh tác đó.
Cơ sở năng suất của một HTCT là sự tăng trưởng của cây trồng nó phụ
thuộc vào môi trường vật lý, hóa học và kỹ thuật quản lý chăm sóc của con
người. Để xây xựng HTCT hợp trước hết phải tìm hiểu mối quan hệ của cây
trồng với môi trường tự nhiên của nó. Từ đó, sắp xếp cây trồng theo không
gian, thời gian cũng như các biện pháp chăm sóc cho phù hợp với môi trường
tự nhiên. Vì vậy việc nghiên cứu HTCT trong hệ thống canh tác là tìm ra các
hình thức trồng trọt có hiệu quả cao nhất. Đồng thời xem xét mối quan hệ tác
động qua lại giữa cây trồng với cây trồng, cây trồng và đất đai, cây trồng với
vật nuôi, cũng như tác động qua lại giữa cây trồng với các hoạt động ngành
nghề khác trong mỗi địa phương.
6
1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến hệ thống cây trồng
Theo Phạm Chí Thành (1991) [12] thì HTCT chịu sự chi phối bởi các
yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội và các điều kiện của nông hộ như đất, lao
động, vốn và kỹ năng sản xuất cụ thể bao gồm các yếu tố sau:
1.2.1. Nhiệt độ
Nhiệt độ có tác động trực tiếp và gián tiếp đến sinh trưởng, phát triển,
phân bố của sinh vật, trong đó có cây trồng. Từng loại cây, giống cây, các bộ
phận của cây, các quá trình sinh lý của cây, sẽ phát triển thích hợp và chỉ an
toàn ở nhiệt độ nhất định. Cây ưa nóng là những cây sinh trưởng và ra hoa kết
quả tốt ở nhiệt độ trên 200C, cây ưa lạnh là những cây sinh trưởng và ra hoa
kết quả ở nhiệt độ dưới 200C, cây trung gian là những cây yêu cầu nhiệt độ
xung quanh 200C để sinh trưởng và phát triển bình thường.
Căn cứ vào yêu cầu nhiệt độ của từng nhóm cây: ưa nóng, ưa lạnh hay
ngày ngắn để bố trí sắp xếp HTCT trong năm. Bố trí HTCT trong một năm ở
nước ta được Lý Nhạc và cs (1987) [8] sắp xếp theo 4 vùng và tùy thuộc vào
yêu cầu nhiệt độ của từng nhóm cây trồng. Đó là những căn cứ để bố trí mùa
vụ, cải tiến cơ cấu cây trồng, né tránh thời tiết bất thuận.
1.2.2. Lượng mưa
Nước là thành phần không thể thiếu của mọi cơ thể sống, thường chiếm
50-98% khối lượng cơ thể sinh vật. Hầu hết lượng nước sử dụng cho nông
nghiệp là nước mặt và một phần nước ngầm, các nguồn này được cung cấp
chủ yếu từ lượng nước mưa hàng năm. Nước mưa ảnh hưởng đến quá trình
canh tác như làm đất, thu hoạch. Mưa ít hoặc mưa quá nhiều so với yêu cầu
đều làm ảnh hưởng đến thời vụ gieo trồng và thu hoạch. Tùy theo lượng mua
hàng năm, khả năng cung cấp và khai thác nước đối với một vùng cụ thể, để
xem xét lựa chọn cơ cấu cây trồng thích hợp.
7
1.2.3. Đất đai
Đất là một nhân tố sinh thái đặc biệt quan trọng cho sinh vật trên cạn.
Đất là công cụ sản xuất đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp. Đất và khí hậu
hợp thành phức hệ tác động vào cây trồng. Hiểu được mối quan hệ giữa cây
trồng với đất thì sẽ dễ dàng xác định được cơ cấu cây trồng hợp lý ở một vùng
nào đó. Tùy thuộc vào địa hình, thành phần lý tính và hóa tính của đất để bố
trí cây trồng phù hợp.
Thành phần cơ giới của đất quy định tính chất của đất như chế độ nước,
chế độ không khí, nhiệt độ và dinh dưỡng. Đất có thành phần cơ giới nhẹ
thích hợp cho trồng cây lấy củ. Đất có thành phần cơ giới nặng và có nước
trên bề mặt phù hợp cho các cây ưa nước. Các cây trồng cạn như ngô, lạc, đậu
tương… thường sinh trưởng tốt và cho và cho năng suất cao trên các loại đất
có thành phần cơ giới nhẹ ( Phạm Bình Quyền và cs, 1992) [9]. Hàm lượng
các chất dinh dưỡng trong đất quyết định đến chất lượng cây trồng hơn là
quyết định đến tính thích ứng, Tuy vậy trong các loại cây trồng cũng có
những cây ưa trồng trên nhứng loại đất có hàm lượng dinh dưỡng cao và cũng
có cây chịu được những loại đất có hàm lượng dinh dưỡng thấp, đất chua,
mặn, có độ độc. Vì vậy, tùy vào thuộc tính chất của từng loại đất mà con
người bố trí cây trồng cho hợp lý.
1.2.4. Cây trồng
Cây trồng là thành phần trung tâm của hệ sinh thái đồng ruộng. bố trí
HTCT hợp lý là lựa chọn cây trồng nào để lợi dụng tốt nhất các điều kiện tự
nhiên cũng như các nguồn tài nguyên khác của vùng. Sử dụng những nguồn
lợi đó một cách tốt nhất, nghĩa là phải lụa chọn cho cây trồng những điều kiện
thuận lợi nhất để chúng sinh trưởng, phát triển và cho năng suất cao.
HTCT hợp lý ở một vùng nào đó là sự bố trí hợp lý của từng loài cây,
giống cây trồng gắn với các yếu tố sinh thái: đất, nước, không khí, năng lượng
8

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét