
Chủ Nhật, 22 tháng 5, 2016
Nghiên cứu mức độ ổn định di truyền của các dòng đột biến lúa ưu việt thu được khi xử lí đột biến giống lúa bắc thơm số 7
Khóa luận tốt nghiệp
Sinh viên: Vũ Văn Quý
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Nguồn gốc của cây lúa.
Các nhà khoa học như: A.G.Handri Cout & Louis Hedin (1944),
E. Werth (1954), H. Wissmonn (1957), Carl Sauer (1952), Jacques Barau
(1965, 1974), Soldheim (1969), Chester Gorman (1970)… đã lập luận vững
chắc và đưa ra giả thuyết cho rằng vùng Đông Nam Á là nơi khai sinh nền
nông nghiệp đa dạng sớm của thế giới. [15]
Quê hương của cây lúa không như nhiều người tưởng là ở Trung Quốc
hay Ấn Độ mà là ở vùng Đông Nam Á. Vì nơi đây có khí hậu ẩm và có điều
kiện lí tưởng cho phát triển nghề trồng lúa (lúa nước thích nghi với khí hậu
nhiệt đới và cận nhiệt đới). Theo kết quả khảo cổ học trong vài thập niên gần
đây, quê hương đầu tiên của cây lúa là vùng Đông Nam Á. Những nơi mà dấu
ấn của cây lúa đã được ghi nhận là khoảng 10000 năm trước công nguyên.
Còn ở Trung Quốc, bằng chứng về cây lúa lâu đời nhất chỉ 5900 đến 7000
năm về trước, và thường thấy ở các vùng xung quanh sông Dương Tử. Từ
Đông Nam Á, nghề trồng lúa được du nhập vào Trung Quốc rồi lan sang Hàn
Quốc, Nhật Bản… những nơi mà cư dân chỉ quen với nghề trồng lúa mạch.
Ngày nay, giới khoa học quốc tế kể cả các nhà khoa học hàng đầu của
Trung Quốc đồng thuận cho rằng quê hương của cây lúa nước là vùng Đông
Nam Á và Nam Trung Hoa. [15]
1.2. Giá trị kinh tế của cây lúa.
Trên thế giới, lúa gạo là nguồn lương thực chủ yếu của hơn một nửa dân
số trên thế giới chủ yếu là ở các nước châu Á, châu Phi và châu Mỹ La Tinh.
Là kế sinh nhai chủ yếu của nông dân, là nguồn cung cấp năng lượng lớn nhất
cho con người. Điều này làm nó trở thành loại cây lương thực được con người
tiêu thụ nhiều nhất.
Khoa Sinh – KTNN
11
Lớp K33 A Sư phạm Sinh
Khóa luận tốt nghiệp
Sinh viên: Vũ Văn Quý
Ở những nước đang phát triển như ở nước ta thì số lượng lao động hoạt
động trong ngành nông nghiệp mà chủ yếu là trồng lúa chiếm 80% dân số. Vì
vậy trồng lúa cũng góp phần giải quyết việc làm cho một lượng lớn lao động.
Ở Việt Nam, với dân số trên 80 triệu người thì 100% người Việt Nam sử
dụng lúa gạo làm lương thực chính. Trong những năm gần đây, Việt Nam sản
xuất lúa gạo không những đáp ứng đủ nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu
ra thế giới góp phần làm tăng thu nhập cho nông dân. Đứng thứ hai thế giới
về xuất khẩu gạo sau Thái Lan.[17]
Sản phẩm chính của cây lúa là gạo làm lương thực, từ gạo có thể nấu
cơm, chế biến thành các loại món ăn khác như: bánh đa nem, phở, bánh đa,
bánh trưng, bún, rượu…
Xét về thành phần sinh hóa, lúa gạo giàu tinh bột, Protein, Lipit… và các
Vitamin như:
+ Tinh bột: Hàm lượng tinh bột 62,4% là nguồn cung cấp chủ yếu calo,
giá trị nhiệt lượng của lúa là 3594 calo. Tinh bột được cấu tạo bởi Amylose và
Amylopectin. Amylose có cấu tạo mạch thẳng, có nhiều trong gạo tẻ.
Amylopectin có cấu tạo mạch ngang và có nhiều trong gạo nếp.
+ Protein: Các giống lúa Việt Nam có hàm lượng Protein chủ yếu trong
khoảng 7% - 8%. Các giống lúa nếp có hàm lượng Protein cao hơn lúa tẻ.
+ Lipit: Chủ yếu là ở lớp vỏ gạo. Nếu ở gạo xay là 2,02% thì ở gạo đã
xát chỉ còn 0,52%.
+ Vitamin: Trong lúa gạo có một số loại vitamin nhất là vitamin nhóm
B như: B1, B2, B6, PP… lượng vitamin B1 là 0,45mg/100 hạt (trong đó ở phôi
là 47%, vỏ cám là 34,5%, hạt gạo là 3,8%).
Khoa Sinh – KTNN
12
Lớp K33 A Sư phạm Sinh
Khóa luận tốt nghiệp
Sinh viên: Vũ Văn Quý
Bảng 1.1: Giá trị dinh dưỡng của lúa gạo tính theo % chất khô so với
một số cây lấy hạt khác.
Tinh bột
Protein
Lipit
62,4
63,8
69,2
71,7
7,9
16,8
10,6
12,7
2,2
2,0
4,3
3,2
Lúa
Lúa mì
Ngô
Cao lương
Các chất
khác
27,5
17,4
15,9
12,4
Các sản phẩm phụ của cây lúa:
+ Tấm: Sản xuất tinh bột, rượu cồn, axeton, phấn mịn, thuốc chữa bệnh
+ Cám: Dùng để sản xuất thức ăn tổng hợp, sản xuất vitamin B1, chế
tạo sơn cao cấp hoặc là nguyên liệu xà phòng…
+ Trấu: Sản xuất nấm men làm thức ăn cho gia súc, làm vật liệu đóng
gói hàng, vật liệu độn cho phân chuồng hoặc là chất đốt…
+ Rơm rạ: Được sử dụng cho công nghệ sản xuất giày, các tông xây
dựng, đồ gia dụng (thừng, chão, mũ, giầy dép…) hoặc làm thức ăn cho gia
súc, sản xuất nấm…
Như vậy, ngoài hạt lúa là bộ phận chính làm lương thực, tất cả các bộ
phận khác của cây lúa đều được sử dụng phục vụ cho nhu cầu cần thiết. Thậm
chí rễ lúa còn nằm trong đất, sau khi thu hoạch cũng được cầy bừa vùi lấp làm
cho đất tơi xốp, được vi sinh vật phân giải thành nguồn dinh dưỡng bổ sung
cho cây trồng vụ sau.[16]
Hiện nay, các nhà khoa học đã tạo ra những giống lúa đặc biệt có giá trị
dinh dưỡng cao như: các giống có hạt gạo chứa nhiều sắt, chứa nhiều vitamin
A, chứa nhiều Protein…
Khoa Sinh – KTNN
13
Lớp K33 A Sư phạm Sinh
Khóa luận tốt nghiệp
Sinh viên: Vũ Văn Quý
1.3. Đặc điểm nông sinh học của cây lúa.
1.3.1. Khả năng đẻ nhánh.
Ở điều kiện bình thường sau cấy 5 -7 ngày cây lúa có thể bén rễ hồi
xanh, chuyển sang đẻ nhánh. Trời âm u, thiếu ánh sáng, nhiệt độ thấp thời
gian bén rễ hồi xanh kéo dài 15 – 20 ngày, thậm chí là 25 – 30 ngày ở vụ
chiêm phía Bắc. Thời kì đẻ nhánh, cây lúa sinh trưởng nhanh và mạnh về rễ
và lá, thời kì này quyết định đến sự phát triển số nhánh/khóm.
Khả năng đẻ nhánh liên quan trực tiếp đến sự tổ hợp của các alen thuộc
3 locus “ Ti-1”, “Ti-2”, “Ti-3”, đẻ nhánh khỏe là tính trạng lặn và được kiểm
soát bởi các alen ti1, ti2, ti3.
Những cây đồng hợp tử về các alen trội của các locus “Ti-1”, “Ti-2”,
“Ti-3” đẻ nhánh rất yếu hoặc không đẻ nhánh. Tùy theo số cặp alen trong kiểu
gen nhiều hay ít mà khả năng đẻ nhánh mạnh hay yếu. Bằng phương pháp
chiếu xạ hạt giống, các tác giả đã thu được các đột biến làm tăng khả năng đẻ
nhánh ở các mức độ khác nhau: đẻ nhánh khỏe hoặc rất khỏe từ các giống lúa
đẻ nhánh trung bình. Các đột biến này di truyền sang M2 theo tỉ lệ phân li của
các phép lai đơn. (Đỗ Hữu Ất)[1],(Đào Xuân Tân)[9]
Theo Jones (1936), Ramiah (1953), và Grist (1968), khả năng đẻ
nhánh của của cây lúa được kiểm tra bởi ít nhất 3 gen đa phân và tính
trạng này chịu ảnh hưởng của điều kiện môi trường.
1.3.2. Chiều dài và chiều rộng lá đòng.
Trên một nhánh lúa, các lá lúa ra kế tục nhau và được sắp xếp so
le. Số lượng lá lúa trên thân chính tùy thuộc vào giống. Giống có thời
gian sinh trưởng dài thì số lá nhiều và ngược lại. Lá hình thành đầu tiên
(sau lá mầm) là lá nguyên thủy, lá này không có phiến lá mà chỉ có bẹ lá.
Lá hình thành cuối cùng là lá đòng. Trong đời sống cây lúa, lá thứ hai
Khoa Sinh – KTNN
14
Lớp K33 A Sư phạm Sinh
Khóa luận tốt nghiệp
Sinh viên: Vũ Văn Quý
tính từ trên xuống luôn hoạt đông mạnh nhất nên lá này gọi là lá công
năng. Lá đòng là lá ra cuối cùng nên nằm trên cùng, vì vậy nó tiếp nhận
nhiều ánh sáng nhất. Từ sau khi lúa trỗ, lá đòng hoạt động không kém lá
công năng nhưng do ra sau, trẻ hơn và ở phía trên nên có vai trò lớn nhất
trong nuôi dưỡng bông lúa.
Phiến lá rộng là trội không hoàn toàn, tính trạng chiều rộng lá
đòng được kiểm soát bởi nhiều gen.[ Kikuchi và cộng sự (1978)]
1.3.3. Chiều cao cây.
Chiều cao cây là một tính trạng nông sinh học quan trọng, liên quan
đến khả năng chống đổ và trực tiếp ảnh hưởng đến năng suất của cây lúa.
Theo nghiên cứu của TS. Đào Xuân Tân (1994) và Đỗ Hữu Ất (1997)
trên một số giống lúa nếp và lúa tẻ đặc sản đều kết luận: “Đột biến lặn về
chiều cao cây có thể xuất hiện theo 2 hướng là dạng thấp hơn dạng gốc (lùn
và nửa lùn) và dạng cao hơn dạng gốc (tùy vào đặc điểm của giống và liều
lượng phóng xạ”). Theo hai tác giả này, tương tác cân bằng giữa 2 locus I và
T vốn có của các giống lúa cổ truyền tạo nên sự ổn định của tính trạng này.
Đột biến đã phá vỡ sự cân bằng giữa các locus kiểm tra chiều cao cây. Do vậy
sự biến đổi của locus I và T hoặc một trong các locus D sẽ tạo ra các dòng đột
biến có chiều cao cây khác nhau và khác với giống gốc. (Đỗ Hữu Ất)[1],(Đào
Xuân Tân)[9].
1.3.4. Chiều dài bông.
Theo Vanderstock J.E (1910), Jones (1982) và Ramiah (1930) khi lai
giữa giống lúa bông dài và giống lúa bông ngắn cho thấy: “kiểu hình bông dài
là trội so với kiểu hình bông ngắn và phân ly theo kiểu gen đa phân”. Điều đó
chứng tỏ có nhiều gen chi phối tính trạng chiều dài bông.
Khoa Sinh – KTNN
15
Lớp K33 A Sư phạm Sinh
Khóa luận tốt nghiệp
Sinh viên: Vũ Văn Quý
Theo TS. Đào Xuân Tân (1994), đột biến lặn đã xuất hiện ở locus Lp
(hay Sp) đã tạo ra alen lp (hay sp), ở M2 có dạng bông dài lplp (hay spsp).
Tùy theo sự có mặt của một trong hai cặp gen trên hoặc cả 2 cặp mà ở M2
xuất hiện các thể đột biến có dạng bông ngắn khác nhau. (Đào Xuân Tân)[10]
Lưu ý rằng: chiều dài bông cần kết hợp hài hòa với chiều dài cổ bông.
Bông dài mà cổ bông cũng dài thì dễ gẫy. Bông dài mà cổ bông trỗ không
thoát (cổ bông không thoát khỏi bẹ lá đòng) thì tỷ lệ lép cao, giảm năng suất.
Bông dài vừa, hạt xếp xít, số gié nhiều là xu thế chung được nhiều nhà chọn
tạo giống quan tâm.
1.4. Các yếu tố cấu thành năng suất.
Mỗi yếu tố cấu thành năng suất lúa đều liên quan đến một giai đoạn phát
triển cụ thể của cây lúa, mỗi một yếu tố đóng một vai trò khác nhau nhưng
đều nằm trong một hệ quả liên hoàn tạo nên hiệu suất cao nhất mà trong đó
các yếu tố đều có liên quan mật thiết với nhau. Như vậy, mỗi giai đoạn sinh
trưởng, phát triển đều liên quan và tạo nên năng suất hạt sau này. Vì vậy,
chăm sóc, quản lí tốt ở tất cả các giai đoạn phát triển của cây lúa là điều hết
sức cần thiết để nâng cao hiệu suất và năng suất cây lúa.
Số nhánh lúa sẽ quyết định số bông và đó cũng là yếu tố quan trọng nhất
để có năng suất cao. Có thể nói số bông đóng góp trên 70% năng suất, trong
khi đó số hạt/bông, số hạt chắc/bông và trọng lượng hạt đóng góp gần 30%.
Số bông/đơn vị diện tích hình thành bởi 3 yếu tố: mật độ cấy, số nhánh
hữu hiệu, điều kiện ngoại cảnh và yếu tố kĩ thuật (ánh sáng, nhiệt độ, phân
bón…). Mật độ cấy là cơ sở của việc hình thành số bông/đơn vị diện tích. Tùy
vào giống lúa và các điều kiện thâm canh như: thời vụ, đất đai, nước, phân
bón… mà quyết định mật độ cấy thích hợp để có thể tăng tối đa số bông/đơn
vị diện tích. Một yếu tố hết sức quan trọng là điều chỉnh sao cho số bông hữu
hiệu/đơn vị diện tích là cao nhất và thích hợp nhất.
Khoa Sinh – KTNN
16
Lớp K33 A Sư phạm Sinh

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét