
Thứ Sáu, 24 tháng 6, 2016
Ảnh hưởng của nhật bản đối với tư tưởng cứu nước của phan bội châu
Trường ĐHSP Hà Nội 2
11
Khóa luận tốt nghiệp
nghĩa binh nổi dậy nhƣ ong, Phan Bội Châu cảm kích viết bài hịch: “Bình Tây
Thu Bắc” (Đuổi Pháp lấy lại Bắc Kỳ) đem dán lên một cây to ở ngoài đƣờng,
để cổ động nhân dân nổi dậy chống Pháp.
Năm 19 tuổi (1885) kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi xuất bôn
và kế đó Pháp kéo quân vào tỉnh Nghệ An, Phan Bội Châu đã bƣớc một bƣớc
mạnh hơn: ông đã tụ tập các bạn đọc thành một đội quân thí sinh trên 60
ngƣời hƣởng ứng theo chiếu Cần Vƣơng. Nhƣng đội quân vừa tổ chức dƣợc
10 ngày chƣa hành động gì thì Pháp kéo đến đốt phá làng tan tành, nhà của
Phan Bội Châu cũng bị đốt, ông bị mọi ngƣời oán trách và phải giải tán đội
quân thí sinh và tự cho việc mình làm là việc yêu nƣớc trò trẻ con.
Ông rất hâm mộ các ông Phan Đình Phùng, Đinh Văn Chất, Nguyễn
Xuân Ôn và phong trào Cần Vƣơng nhƣng vì địa vị chƣa có và gia đình khó
khăn nên chƣa theo ngay phong trào đƣợc. Năm 20 tuổi, Phan Bội Châu viết
quyển: “Song tuất lục” ca ngợi những ngƣời cần đầu phong trào văn thân năm
giáp tuất lúc Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất và những ngƣời cần đầu phong
trào Cần Vƣơng năm Bính tuất sau khi Hàm Nghi xuất bôn ở hai tỉnh Nghệ
An và Hà Tĩnh.
Từ năm 21 tuổi đến năm 31 tuổi, Phan Bội Châu vì cảnh nhà nghèo
đói, mẹ đã chết, cha đang bị ốm, nên phải lo dạy học nuôi gia đình, sống một
cách ẩn nấp, chăm chỉ học hành để đi thi hƣơng cho đỗ cho có danh vọng. Vì
ông nhận thấy đời còn ham chuộng danh tƣớc này danh tƣớc nọ mà mình
không có thì khó bề hoạt động. Tuy vậy ông vẫn bí mật liên kết với các dƣ
đảng Cần Vƣơng và các khách lục lâm, và đã gặp nhiều tâm phúc sau này
cùng hoạt động cách mạng. Đây chính là lúc ông chuẩn bị lực lƣợng để hoạt
động sau này.
Tạ Thị Hải K34 B- CN Sử
Trường ĐHSP Hà Nội 2
12
Khóa luận tốt nghiệp
Năm 34 tuổi ông thi đỗ giải nguyên trƣờng Nghệ An, danh tiếng lẫy
lừng cũng là lúc cha ông từ trần. Từ đây không còn vƣớng gánh nặng gia đình
nữa ông tích cực cho hoạt động cách mạng.
Từ năm 1900 cho đến 1905, Phan Bội Châu ráo riết vận động trong
nƣớc với ba kế hoạch hoạt động cụ thể. Thứ nhất là: liên kết với những dƣ
đảng Cần Vƣơng và những tay tráng kiện ở sơn lâm, xƣớng khởi nghĩa binh,
mục đích là đánh Pháp phục thù mà thủ đoạn là bạo động. Thứ hai là: tìm
ngƣời hoàng thân lập làm minh chủ, ngầm liên kết với những ngƣời có thế lực
để họ ứng viện lại tập hợp những ngƣời trung nghĩa ở Trung - Bắc kỳ cùng
nhau khởi sự. Thứ ba là: thi hành hai kế hoạch trên, lúc nào cần đến ngoại
viện thì phái ngƣời xuất dƣơng cầu viện.
Năm 1901, nhân ngày lễ tập trung 14-7 Phan Bội Châu cùng một số
đồng chí đã đánh úp tỉnh Nghệ An nhƣng thất bại. Năm 1903, Phan Bội Châu
mƣợn tiếng vào Huế học để tìm kiếm ngƣời yêu nƣớc trong đám quan trƣờng
và sĩ phu. Năm 1904, Phan Bội Châu cùng 20 đồng chí đã hội nghị ở nhà ông
Tiểu La lập thành hội và bầu Cƣờng Để làm hội trƣởng, hội này sau khi Phan
Bội Châu xuất dƣơng mới đƣợc goi là hội Duy Tân. Cũng trong hội nghị này
Phan Bội Châu đƣợc cử xuất dƣơng cầu viện Nhật Bản. Năm 1905, Phan Bội
Châu sang Trung Quốc rồi Nhật Bản. Phan Bội Châu xuất dƣơng nhằm mục
đích cầu viện binh và mua khí giới của Nhật để trang bị cho nghĩa binh ở nhà.
Hoạt động của ông ở nƣớc ngoài gặp nhiều khăn. Lúc đến Hồng Kông
ông giao thiệp với các nhà báo Trung Quốc nhƣ Thƣơng báo của Đảng bảo
hoàng và Trung Quốc nhật báo của Đảng cách mạng. Sự yêu cầu giúp đỡ đều
không có hiệu quả. Sau đó ông sang Nhật Bản, ở đây ông gặp Lƣơng Khải
Siêu, Lƣơng Khải Siêu khuyên ông nên viết nhiều bài văn gửi về nƣớc để cổ
động nhân dân và khuyên thanh niên xuất dƣơng du học.
Tạ Thị Hải K34 B- CN Sử
Trường ĐHSP Hà Nội 2
13
Khóa luận tốt nghiệp
Giữa năm 1905, Phan Bội Châu trở về nƣớc đƣa một số thanh niên
sang Nhật và chuẩn bị cho việc đƣa Cƣờng Để xuất dƣơng.
Năm 1906, Cƣờng Để đến Hồng Kông, Phan Bội Châu lúc đó mới thảo
ra chƣơng trình của hội Duy tân in gửi về nƣớc. Cũng lúc đó Phan Chu Trinh
chốn ra gặp Phan Bội Châu, cả ba ngƣời cùng sang Nhật. Nhờ vào số tiền
Cƣờng Để mang sang Nhật và trong nƣớc gửi sang do sự vận động của các
đảng viên, Phan Bội Châu mới mở rộng nhà Bính ngọ hiên làm cơ quan và
xin cho học sinh vào trƣờng Chấn Vũ, tại đây Phan Bội Châu lại mƣợn tên
Cƣờng Để thảo bài tuyên cáo phụ lão toàn quốc phân phát khắp ba kỳ Bắc,
Trung, Nam.
Hƣởng ứng theo lời kêu gọi của Phan Bội Châu, học sinh ra ngoài học
càng ngày càng nhiều. Các học sinh Việt Nam đƣợc vào học trong trƣờng
Đông á đồng văn, buổi sáng học tiếng Nhật và các môn phổ thông, buổi chiều
học quân sự. Năm 1907, các lƣu học sinh lập ra Công hiến hội. Năm 1908,
một mặt chính phủ Pháp đàn áp các gia đình có con xuất dƣơng du học, một
mặt chúng liên kết với chính phủ Nhật bắt giải tán lƣu học sinh Việt Nam ở
Đông Kinh. Đầu năm 1909, Pháp Nhật kí kết hiệp ƣớc với nhau, Đảng cách
mạng của Việt Nam bị trục xuất, Phan Bội Châu và Cƣờng Để bị trục xuất
khỏi Nhật.
Trong nƣớc nhiều việc quan trọng xảy ra, ở Quảng Nam và một số tỉnh
khác ở Trung Kỳ xảy ra vụ án “xin xâu” nhân dân bị khủng bố, các nhà chí sĩ
bị bắt đầy ra Côn Đảo (1908), ở Hà Nội trƣờng Đông Kinh Nghĩa thục bị
đóng cửa, các hội học, hội buôn ở trong nƣớc đều bị khủng bố.
Năm 1909, Pháp bội ƣớc tiến công Hoàng Hoa Thám ở Phồn Xƣơng,
nhân dân cả nƣớc phẫn uất. Phan Bội Châu đã dùng tiền vận động đƣợc trong
nƣớc để mua khi giới, ông mua đƣợc 500 khẩu súng. Trong khi Phan Bội
Châu đang chạy khắp nơi để tìm cách trở khí giới về nƣớc thì trong nƣớc ông
Tạ Thị Hải K34 B- CN Sử
Trường ĐHSP Hà Nội 2
14
Khóa luận tốt nghiệp
Ngƣ Hải bị hi sinh, quân Hoàng Hoa Thám bị tan rã. Trƣớc tình hình đó ông
đem vũ khí giúp cho đảng Tôn Dật Tiên.
Tháng 10 năm Tân Hợi (1911) cách mạng Trung Quốc thành công.
Ông trở về Quảng Đông tập hợp lại các đồng chí phân tán từ bấy lâu nay, tụ
tập lại để tổ chức lại lực lƣợng.
Năm 1912, hội Việt Nam quang phục đƣợc thành lập. Tôn chỉ duy nhất
của hội là: Đánh đuổi thực dân Pháp khôi phục nƣớc Việt Nam thành lập
nƣớc cộng hòa dân quốc Việt Nam. Cƣờng Để đƣợc bầu làm hội trƣởng, Phan
Bội Châu làm tổng lý. Hội đã chế ra quốc kì Việt Nam, xuất bản sách nói về
phƣơng lƣợc của hội, in quân dụng phiếu và tổ chức ra hội Chấn hoa hƣng á,
mục đích là nâng cao địa vị Trung Hoa và giúp cách mạng Việt Nam.
Năm 1913, toàn quyền Đông Dƣơng Sa-rô yêu cầu chính phủ Trung
Hoa bắt những đảng viên cách mạng Việt Nam trong đó trọng yếu nhất là
Phan Bội Châu, Phan Bội Châu bị bắt gian 3 năm sau đó đƣợc thả.
Đƣợc ra tù vào năm 1917, là lúc cuộc đại chiến thế giới thứ nhất bƣớc
vào giai đoạn quyết liệt, Phan Bội Châu đã bắt liên lạc với công sứ Đức tại
Trung Quốc, mong sự viện trợ của Đức để đánh Pháp. Cuộc vận động này
cũng có gây đƣợc vài cuộc phá rối đối với Pháp và thu đƣợc một ít kết quả.
Đầu năm 1918, là lúc tên Sa-rô làm toàn quyền Đông Dƣơng. Hắn lừa
bịp nhân dân bằng vài việc cải lƣơng nhƣ ban hành bộ luật mới ở Bắc Kỳ, mở
thêm vài trƣờng học cho thành lập một vài cải hội. Bộ tân luật Bắc Kỳ chẳng
qua là để bênh vực quyền lợi cho địa chủ và tƣ sản, trƣờng học nhằm mục
đích đào tạo tay sai cho chúng.
Cuối năm 1918, Phan Bội Châu từ Hàng Châu về nƣớc theo con đƣờng
Vân Nam. Về đến Vân Nam thì cái tin Pháp thắng trận đã đăng trên khắp các
báo. Thất vọng Phan Bội Châu lại trở về Hàng Châu. Đầu năm 1919, đƣợc
Phan Bá Ngọc làm trung gian Phan Bội Châu gặp tên Nê-rông, đại diện của
Tạ Thị Hải K34 B- CN Sử
Trường ĐHSP Hà Nội 2
15
Khóa luận tốt nghiệp
toàn quyên Sa-rô ở Hàng Châu. Đó là kết quả của bài luận “Pháp Việt đề
huề”. Tên này đã mang bức thƣ của Sa-rô yêu cầu Phan Bội Châu viết một bài
gửi về nƣớc thủ tiêu ý chí cách mạng, và hứa sẽ bổ nhiệm chức quan cho
Phan Bội Châu. Phan Bội Châu đã kịch liệt phản đối, nói rõ ý đề huề của ông
và viết thƣ trả lời cự tuyệt những điều kiện không chính đáng của Sa-rô.
Năm 1920, ông đến gặp đại sứ Nga ở Bắc Kinh và đƣợc tiếp đón niềm
nở, đƣợc hứa giúp đỡ nếu ông muốn gửi học sinh Việt Nam sang du học bên
Nga. Nhƣng rồi sự giao thiệp cũng không đƣợc tiếp tục.
Từ đây Phan Bội Châu chỉ viết báo viết sách một là để sinh sống và để
nuôi một số thanh niên ta sang Trung Quốc, hai là để truyền bá tƣ tƣởng của
mình.
Năm 1922, tên việt gian Phan Bá Ngọc bị một thanh niên cách mạng
giết ở Hàng Châu.
Tháng 6-1924, Méc-lanh tên toàn quyền Đông Dƣơng gặp chính phủ
Trung Quốc để thƣơng lƣợng việc can thiệp vào cách mạng Việt Nam tại
Quảng Đông. Nhà cách mạng trẻ Phạm Hồng Thái đã ném tạc đạn vào tên
Méc-lanh ở khách sạn Vích-to-ri-a tại Sa diện trong tô giới Pháp. Tiếng bom
Sa diện làm cho nhân dân ta phấn khởi và thế giới biết đến có Đảng cách
mạng Việt Nam.
Lần này về Quảng Đông ông đã đƣợc gặp Nguyễn ái Quốc, Phan Bội
Châu đã cùng thảo luận nhiều và định cải tổ Đảng cho thích hợp với phong
trào mới.
Tháng 6-1925, ông bị một bọn mật thám Pháp bắt và đƣa về tô giới
Pháp.
Đƣa về nƣớc, Phan Bội Châu bị tòa án đề hình tại Hà Nội xử khổ sai
chung thân… Nhân dân rất phẫn uất họ kí tên vào truyền đơn và rải nhiều nơi
trong nƣớc phản đối việc bắt và làm án Phan Bội Châu. Trƣớc sự phản đối
Tạ Thị Hải K34 B- CN Sử
Trường ĐHSP Hà Nội 2
16
Khóa luận tốt nghiệp
gay gắt của đông đảo quần chúng tên tên toàn quyền Va-ren-nơ đã thả Phan
Bội Châu và đƣa về Huế. Về Huế ông tiếp tục viết sách ca ngợi lòng ái quốc
của nhân dân. Thời gian này ông sống khá ảm đạn trong một ngôi nhà tranh
vách đất do đồng bào góp tiền làm cho khi ông trở về Huế.
Đến ngày 29-10-1941, sau một thời gian ốm khá lâu ông già Bến Ngự
đã chút hơi thở cuối cùng. Đám tang đƣợc cử hành tại vƣờn riêng của ông ở
Bến Ngự, có hàng trăm câu liễn gửi đến phúng viếng. Hơn nữa nhân dân đã bí
mật góp tiền xây dựng một cái mộ lớn xứng đáng với một ngƣời yêu nƣớc và
gian khổ vì nƣớc.
Sau quãng đời 74 tuổi với ngót 30 năm hoạt động cách mạng, Phan Bội
Châu đã để lại trong trí nhớ chúng ta một ấn tƣợng sâu sắc, tinh thần diệt thù
cứu nƣớc của ông làm cho mọi ngƣời khâm phục.
1.1.2. Quê hương và các mối quan hệ xã hội
Quê hương
Làng Sa Nam (nay là xã Nam Diên), quê ngoại Phan Bội Châu cũng
nhƣ làng Đan Nhiễm (nay là xã Xuân Hòa) quê nội Phan Bội Châu cách nhau
khoảng ba kilômét đều nằm trên tả ngạn sông Lam dọc theo hƣớng Đông
Nam của con đê 42 của Nam Đàn, tỉnh Nghệ Tĩnh.
Nghệ Tĩnh là một tỉnh nghèo, con ngƣời cần cù mà hiếu học. Trong lịch
sử đấu tranh của dân tộc, Nghệ Tĩnh là nơi diễn ra nhiều cuộc chiến đấu của
nhân dân ta với kẻ thù. Thời Trần Nghệ Tĩnh là căn cứ của Trần Quý Kháng
và Lê Lợi trong kháng chiến chống quân Minh. Thời Lê – Trịnh nơi đây là
chỗ dụa của Nguyễn Kim, Trọng Kiểm trong việc chống nhà Mạc khôi phục
nhà Lê…
Sau khi đất nƣớc rơi vào tay Pháp, Nghệ Tĩnh là nơi diễn ra phong trào
chống Pháp sâu rộng và kéo dài hơn cả, tổ chức kháng chiến đã đƣợc ra đời ở
tất cả các huyện. Đây là nơi diễn ra các cuộc đọ sức của nhân dân ta với giặc
Tạ Thị Hải K34 B- CN Sử

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét