
Chủ Nhật, 19 tháng 6, 2016
Vai trò của cộng đồng người việt ở lào từ năm 1976 đến năm 2012
6. Đóng góp của khóa luận.
Khóa luận tập trung phân tích, nghiên cứu ,tìm hiểu sự xuất hiện của
những người Việt đầu tiên đặt chân đến Lào,quá trình di cư và hình thành nên
cộng đồng người Việt ở Lào, hiện trạng một số hội người Việt Nam ở Lào.
Những đóng góp của cộng đồng người Việt đối với sự phát triển kinh tế- xã
hội Lào.
6
Chương 1
KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CỘNG ĐỒNG NGƯỜI
VIỆT Ở LÀO
1.1. KHÁI NIỆM
1.1.1. Việt kiều
Chúng ta đều biết khái niệm “ngoại kiều” là để chỉ những người nước
ngoài sống trên một nước sở tại nào đó. Những người này được hưởng quy chế
ngoại kiều. Do vậy trước đây người ta thường dùng khái niệm “Việt Kiều” để
chỉ những người Việt định cư lâu dài ở nước ngoài mà không có quốc tịch
nước sở tại. Trong thực tế, thuật ngữ Việt kiều lại bao gồm cả những người đã
nhập quốc tịch nước sở tại. Thuật ngữ “Việt Kiều” được sử dụng rộng rãi trong
các văn bản nhà nước Việt Nam cho đến trước tháng 11/ 1993. Chịu trách
nhiệm các công việc về Việt kiều có Ban Việt Kiều Trung ương [ 21; 121].
Trong những thập niên cuối thế kỷ XX, số lượng người Việt ở nước
ngoài ngày càng gia tăng. Bên cạnh những người Việt được gọi là Việt kiều
như trên còn có cả những người mới ra nước ngoài từ những thập kỷ 80, 90
theo các con đường khác nhau như được cử đi học (đại học, sau đại học, học
ngề), đi xuất khẩu lao động… khi hết hạn, hết hợp đồng không trở về nước
mà ở lại làm ăn sinh sống. Do vậy lúc này lại xuất hiện thêm khái niệm “
người Việt Nam định cư ở nước ngoài”. Cũng vì thế từ cuối tháng 11/1993
trong các văn bản pháp luật Thực định của Việt Nam không dung thuật ngữ
“Việt kiều” nữa mà dùng “ người Việt Nam định cư ở nước ngoài” để chỉ tất
cả các bộ phận người Việt sống ở nước ngoài nói trên. Cơ quan chịu trách
nhiệm các công việc về người Việt Nam ở nước ngoài là Ủy ban về người
Việt Nam ở nước ngoài [14; 14-15].
7
Có lẽ Thuật ngữ chính xác nhất và chính thống nhất là “Người Việt
Nam ở nước ngoài” được đưa ra trong Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị, ban
hành ngày 26/3/2004. Văn kiện quan trọng này đã nhấn mạnh “Đảng và nhà
nước ta luôn coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận
không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”. Tất nhiên trong khái
niệm người Việt Nam ở nước ngoài nói trên không bao gồm những cán bộ
(ngoại giao, phóng viên, các đại diện các hãng, các công ty…); những học
sinh sinh viên đang theo học ở nước ngoài và cả những người đang thực hiện
sự hợp tác, xuất khẩu lao động theo chương trình, kế hoạch của nhà nước.
1.1.2. Cộng đồng người Việt
Trong nghị quyết 36 của Bộ Chính trị có nhấn mạnh đến khái niệm
“Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài”. Vậy cộng đồng là gì ? Theo từ
điển Bách Khoa Việt Nam “Cộng đồng (xã hội) là một tập đoàn người rộng
lớn có những dấu hiệu, những đặc điểm xã hội chung về thành phần giai cấp,
về nghề nghiệp, về địa điểm sinh tụ và cư trú. Cũng có những cộng đồng xã
hội bao gồm cả một dòng giống, một sắc tộc , một dân tộc. Như vậy Cộng
đồng xã hôi bao gồm một loạt yếu tố xã hội chung mang tính phổ quát. Đó là
những mặt về cộng đồng kinh tế, về địa lý, về ngôn ngữ, về văn hóa, về tín
ngưỡng và tâm lý, về đời sống.Những yếu tố này trong tính tổng thể của nó
tạo nên tính ổn định và bền vững của một cộng đồng xã hội. Khẳng định tính
thống nhất của một cộng đồng xã hội trên quy mô rộng lớn, cũng đồng thời
phải thừa nhận tính đa dạng và nhiều mầu sắc của các cộng đồng xã hội trên
những quy mô nhỏ hơn” [ 21; 601].
Căn cứ vào quan niệm trên, người Việt ở Lào từ lâu đã cùng nhau tạo
nên một cộng đồng với đầy đủ những yếu tố cấu thành của nó, tức là những
người Việt đó đã cùng sống trên lãnh thổ nước Lào, cùng sinh kế làm ăn,
cùng nói tiếng Việt, có đời sống tâm linh với tín ngưỡng, tôn giáo giống nhau
8
và cùng nhau giữ gìn bản sắc văn hóa Việt. Vậy cộng đồng người Việt ở Lào
sẽ bao gồm những thành phần tộc người nào? Trước hết phải hiểu cộng đồng
người Việt ở đây là muốn nói đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài,
tức bao gồm nhiều thành phần tộc người khác nhau. Tuy nhiên do khuôn khổ
của công trình này, tôi xin được hạn chế ở cộng đồng người kinh (Việt).
Qua điều tra nghiên cứu, cộng đồng người Việt ở Lào gồm ba bộ phận
sau:
Thứ nhất là những người Việt đã nhập quốc tịch Lào hay còn gọi là
người Lào gốc Việt.
Thứ hai là những người Việt định cư lâu đời ở Lào nhưng chưa nhập
quốc tịch Lào, được gọi là Việt kiều (được hưởng quy chế ngoại kiều).
Thứ ba là những người mới đến Lào bằng nhiều con đường như tự do
tìm kiếm công ăn việc làm (có và không có hộ chiếu); buôn bán tự do; những
người đến Lào làm việc theo hợp đồng, dự án hợp tác, hết thời hạn không về
ở lại Lào; các cô dâu, chú rể người Việt…
Cũng có ý kiến cho rằng cộng đồng người Việt ở Lào chia làm hai
nhóm : trước và sau năm 1975. Trước năm 1975 gọi là người Việt cũ và sau
năm 1975 gọi là người Việt mới.
1.2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT Ở LÀO
1.2.1. Giai đoạn trước năm 1899
Lào và Việt Nam là hai nước láng giềng có chung 2.067km đường biên
giới. Có thể nói từ xa xưa Lào và Việt Nam đã có mối quan hệ khá đặc biệt,
trong đó yếu tố địa lý đóng vai trò quan trọng đã tác động đến mối quan hệ
qua lại của nhân dân hai nước, nhất là diễn ra ở dọc biên giới miền núi Tây
bắc Việt Nam với các tỉnh của Lào từ Phôngsalỳ xuống đến Sầm Nưa, Xiêng
khoảng, Khăm Muộn, thậm chí tiến sâu vào tận Luổng phabang, kéo dài đến
vùng núi Thanh Hóa và Nghệ An của Việt Nam.
9
Phần lớn tuyến biên giới Việt Nam - Lào đều đi qua các đỉnh núi hoặc
triền núi và qua những cánh rừng rậm nhiệt đới. Do địa hình biên giới quá dài,
cộng với sự phân bố cư dân dọc các đường biên giới quá thưa thớt và chủ yếu
lại là địa bàn cư trú của các dân tộc ít người nên từ bao đời nay việc đi lại
giữa hai quốc gia, nhất là từ Việt Nam sang Lào hết sức thuận lợi.
Điều kiện địa lý thuận lợi này chính là yếu tố quan trọng dẫn đến sự
hiện diện của cộng đồng người Việt trên đất nước Lào từ rất sớm. Tất nhiên
sự hiện diện của cộng đồng người Việt ở vùng biên giới nói trên vào thời kỳ
đó diễn ra một cách tự nhiên, đơn thuần chỉ là sự giao lưu qua lại giữa cư dân
vùng biên giới, hoàn toàn chưa liên quan gì đến mối bang giao giữa hai vương
triều phong kiến Việt Nam và Lào. Lực đẩy từ phía Việt Nam hay lực hút từ
phía Lào không phải là vấn đề đặt ra đối với họ, bởi lẽ đương thời các vùng
như Sầm Nưa, Xiêng khoảng, Khăm Muộn với Lai Châu, Điện Biên, Thanh
Hóa,Nghệ An, nhân dân hai dân tộc thường xuyên đi lại làm ăn buôn bán,
thậm chí định cư tạm thời hoặc ở hẳn đất Lào, đất Việt là chuyện thường nhật.
Sau này khi Liên bang Đông Dương thuộc Pháp hình thành thì thân phận của
cộng đồng người Việt ở Lào mới có sự thay đổi và từ sau năm 1919 (sau
chiến tranh thế giới lần thứ nhất) những người Việt lúc đó sống trên đất Lào
mới thực sự trở thành kiều dân của vương quốc Lào.
Quá trình di dân của người Việt đã diễn ra trong suốt chiều dài lịch sử
phát triển đất nước và mở rộng bờ cõi. Quá trình này đi cùng với quan hệ qua
lại giữa hai nước Việt –Lào và quan hệ này đã được thiết lập từ xa xưa. Theo
thư tịch cổ ghi chép đầu tiên về quan hệ Việt - Lào là từ năm 550 dưới thời
nước Vạn Xuân của nhà tiền Lý. Khi đấy, bị quân Lương đàn áp, Lý Nam Đế
buộc phải lánh nạn và anh ruột của vua là Lý Thiên Bảo đã chạy sang Lào lập
căn cứ chống giặc ngoại xâm: “Năm canh ngọ (550) (Triệu Việt Vương năm
thứ 2, Lương Giản văn đế, năm Đại Bảo thứ 1) tháng giêng, mùa xuân, Lý
10
Thiên Bảo giữ động Dã Năng, tự xưng là Đào Lang Vương. Trước kia, Lý Bôn
lánh vào Động khuất Lạo,anh ruột Lý Bôn là Thiên Bảo… rút vào Cửu
Chân… quân Thiên Bảo bị thua mới thu thập quân còn lại chạy sang vùng
người Di Lạo ở biên giới Ai Lao. Thiên Bảo thấy động Dã Năng… là chỗ đất
bằng phẳng và màu mỡ ,bèn đắp thành ở đấy…, được dân chúng tôn làm chúa,
xưng là Đào Lang Vương” [26; 8].
Sau đó đến thế kỷ 11, dưới vương triều Lý, nhà Lý đã ba lần mang
quân giải quyết các xung đột ở biên cương Lào- Việt vào những năm 1048
(Lý Thái Tôn), năm 1159 (Lý Anh Tôn) và năm 1183 (Lý Cao Tôn). Rồi đến
thời Trần, cũng có nhiều cuộc động binh sang Lào vào các năm 1290, 1294,
1334 và 1335 nhưng chủ yếu chỉ nhằm mục đích phòng vệ và tìm kiếm đồng
minh nên các cuộc động binh của nhà Trần hầu như không làm tổn hại đến
quan hệ giữa hai nước. Chính vì vậy mà khi nhà Trần mất đi, nhiều quý tộc
triều Trần đã sang Lào lập căn cứ nuôi dưỡng lực lượng làm nơi nương tựa
để tìm đường khôi phục vương triều.
Sang đến thời nhà Lê vua Lê Thánh Tông đã hai lần thân chinh cầm
quân sang Lào. Lần thứ nhất vào tháng 6 năm 1479. Trong lần tấn công này,
do phía Lào không chuẩn bị lực lượng nên quân đội nhà Lê đã nhanh chóng
tiến vào thủ đô Luổng Phabang và truy đuổi vua Lào chạy đến biên giới
Myanma rồi mới trở về. Lần thứ hai vào tháng 10 cùng năm đó, vua Lê Thánh
Tông lại tập hợp quân mã tiến sang Lào. Nhưng lần này, các chậu mường địa
phương của Lào đã biết trước ý đồ của vua Lê Thánh Tông nên đã tập hợp
nhau lại để chống đỡ. Do quân lính đi xa mệt mỏi lại gặp phải quân đội các
chậu mường Lào chống đỡ nên quân đội nhà Lê lần này không vào được
Luổng Phabang. Vua Lê bèn sai rút quân về.Lần này, quân đội nhà Lê một số
bị tử trận, một số bị thương, bị bắt làm tù binh. Nhiều người trong số tù binh
Việt đó đã được nhân dân Lào chạy chữa vết thương và sau đó đã được phép
11

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét