
Thứ Sáu, 17 tháng 6, 2016
Kinh tế nhật bản trong thập niên mất mát (thập niên 90 của thế kỉ XX)
Khóa luận tốt nghiệp
11
tài sản dư thừa so với nợ vào năm 1986, đã trở nên có tài sản thuần âm vào
năm 1991. Dư thừa của Nhật Bản gần như tương đương với phần thiếu hụt
trong tài sản thuần của Mỹ vào năm 1991. Tài sản thuần của Anh cũng giảm
xuống và dư thừa của Đức gần như ngang bằng với của Nhật Bản vào năm
1991.
Nguyên nhân khiến bong bóng kinh tế hình thành có nhiều. Nguyên
nhân đầu tiên là việc đồng yên lên giá sau Thỏa ước Plaza (năm 1985) gây
khó khăn cho các nhà xuất khẩu của Nhật Bản và đe dọa tăng trưởng kinh
tế của nước này. Ngân hàng Nhật Bản đã phải thực hiện chính sách tiền tệ nới
lỏng (hạ lãi suất) để đối phó với điều đó, nên tính thanh khoản cao quá mức
hình thành. Kết quả là kinh tế tăng trưởng mạnh và đầu cơ tài sản bắt đầu làm
tăng giá tài sản. Mặt khác, các nhà đầu tư bắt đầu thay đổi danh mục đầu tư
của mình khi tỷ giá Yên/Dollar thay đổi và nhất là sau sự kiện Ngày thứ Hai
đen tối trên thị trường chứng khoán Mỹ. Họ giảm đầu tư vào tài sản của Mỹ
và tăng đầu tư vào các tài sản của Nhật Bản. Giá tài sản trong đó có giá cổ
phiếu và trái phiếu công ty tăng kích thích xí nghiệp đầu tư. Lạm phát tăng
tốc kích thích tiêu dùng. Bong bóng kinh tế nói chung và bong bóng giá tài
sản chỉ được nhận ra sau khi chúng bắt đầu vỡ vào đầu thập niên 1990.
Đồng Yên tăng giá đã kích thích các xí nghiệp của Nhật Bản đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài. Nó cùng với việc người Nhật trở nên giàu hơn đã kích
thích họ mua các tài sản của nước ngoài (chẳng hạn như mua xưởng phim của
Mỹ, mua các tác phẩm hội họa nổi tiếng) và đi du lịch nước ngoài.
Các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác của Nhật Bản sau một thời
gian dài đầu tư vào các xí nghiệp trong khu vực chế tạo thì đến thời kỳ này
bắt đầu đầu tư vào các tài sản tài chính. Họ cũng tích cực cho vay đối với các
dự án phát triển bất động sản. Họ còn sẵn sàng chấp nhận các tài sản tài chính
và bất động sản làm thế chấp khi cho các xí nghiệp và cá nhân vay. Đây chính
SV: CaoThị Hải Yến
K34A - Khoa lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp
12
là một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến các tổ chức tín dụng của Nhật
Bản sau này mắc phải tình trạng nợ khó đòi khi bong bóng kinh tế và bong
bóng giá tài sản vỡ.
Vào thời điểm đó, hầu hết các chuyên gia kinh tế chưa có nhiều trải
nghiệm về hiện tượng kinh tế bong bóng. Không ít người cho rằng nền kinh tế
Nhật sẽ tiếp tục phát triển với tốc độ cao và Nhật Bản có khả năng vượt Mĩ,
trở thành nền kinh tế đứng đầu thế giới.
Trên thực tế bong bóng kinh tế là một hiện tượng gây tác động tiêu cực
lên nền kinh tế. Thêm vào đó khi bong bóng nổ, nó có thể gây thiệt hại một
khối lượng của cải khổng lồ đồng thời kèm theo một giai đoạn bất ổn kinh tế
kéo dài. Hậu quả của bong bóng kinh tế không chỉ tàn phá nền kinh tế của
một quốc gia mà còn ảnh hưởng lan ra ngoài biên giới. Và Nhật bản cũng
không thể tránh khỏi được thực tế đó, ngay sau nền kinh tế bong bóng 1986 1991, lịch sử Nhật Bản bước vào thời kì khủng hoảng kinh tế kéo dài về mọi
mặt trong suốt thập niên 90 của thế kỉ XX.
1.2. NỀN KINH TẾ BONG BÓNG NỔ TUNG VÀ BIỂU HIỆN KHỦNG
HOẢNG
Chỉ khi nền kinh tế bong bóng đạt sự mở rộng tối đa của nó thì tới năm
1990 nó mới nổ tung, kinh tế Nhật Bản bước vào tình trạng khủng hoảng với
những biểu hiện sau đây:
1.2.1. Sự suy giảm tốc độ tăng trưởng
Bước sang những năm 90, cuộc chiến tranh lạnh kết thúc đã chấm dứt
thời kì đối đầu quân sự, chạy đua vũ trang giữa các cường quốc và mở ra thời
kì mới với đặc trưng là quốc tế hóa, toàn cầu hóa và sự ganh đua về kinh tế
giữa tất cả các quốc gia. Kinh tế Mỹ, sau khi vượt qua cuộc khủng hoảng
1990 - 1991 đã liên tục tăng trưởng với tốc độ trung bình 2,9% trong vòng 9
năm qua, lạm phát và thất nghiệp đều được duy trì ở mức thấp, nhu cầu trong
SV: CaoThị Hải Yến
K34A - Khoa lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp
13
nước - động lực chính của sự tăng trưởng - tăng mạnh mẽ. Trong khi đó, các
nước châu Âu đã hoàn thành quá trình nhất thể hóa về chính trị. Tháng
11/1993, Cộng đồng kinh tế Châu Âu đã chính thức chuyển thành Liên minh
Châu Âu (EU), đồng thời với sự ra đời của đồng tiền chung Châu Âu - EURO
- đánh dấu sự trưởng thành về kinh tế cũng như sự thống nhất cao giữa các
nước Châu Âu.
Còn Nhật Bản, nước từng tranh chấp với Mỹ và Tây Âu trong các cuộc
chạy đua kinh tế trước đây, lại rơi vào tình trạng đình trệ, suy thoái kinh tế
nghiêm trọng kéo dài tới 9 năm từ năm 1991, với tốc độ tăng trưởng kinh tế
giảm tuyệt đối trong hai năm liền, 1997 và 1998. Có thể nói, đây là một hiện
tượng không bình thường của một nước Nhật vốn được coi là “Vương quốc
của những câu chuyện kinh tế thần kì” và một thời kì suy thoái tồi tệ nhất
trước đây, thì lần suy thoái này, về phương diện nào đó, còn tồi tệ hơn nhiều.
Trong cuộc khủng hoảng trước (1973), sau khi tốc độ tăng trưởng thực tế
giảm từ 8,0% năm 1973 xuống -1,2% năm 1974, và nền kinh tế chỉ nằm trong
tình trạng trì trệ khoảng một năm và nhanh chóng khôi phục trở lại mức tăng
trưởng 3,1% năm 1975, rồi 4,0% năm 1976 và liên tục duy trì mức tăng
trưởng trung bình 5,0% hàng năm trong suốt nhiều năm sau đó. Còn lần này
tình hình có vẻ ngược hẳn lại, tốc độ tăng trưởng thực tế đã giảm từ 2,9% năm
1991 xuống còn 0,4% năm 1992 và 4 năm liền sau đó (1992 - 1995) mức tăng
trưởng âm trong hai năm liền. Cho đến đầu năm 1999, lượng hàng tồn kho
vẫn giữ ở mức cao nhất trong 24 năm kể từ sau khủng hoảng kinh tế 1975,
chứng tỏ nền kinh tế Nhật Bản đang bị thụt lùi toàn diện.
Bảng tốc độ tăng trưởng GDP Nhật Bản những năm 90
SV: CaoThị Hải Yến
K34A - Khoa lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp
14
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
5,5
2,9
0,4
0,5
0,6
1,4
2,9
-0,7
-1,9
0,5
Nguồn: Japan research Quarterly,Spring 1997 and Winter 1996/1997:
OECD, Main Economic Indicators,6/2000 MOF.
Đây là hậu quả của sự suy giảm toàn diện các thành phần cấu thành của
GDP, bao gồm chi tiêu tiêu dùng tư nhân, đầu tư xây dựng nhà cửa, chi tiêu
của chính phủ, xuất nhập khẩu và sự gia tăng hàng tồn kho.
Nếu tính 7 năm, từ năm 1990 - 1997, tổng số mất mát của nền kinh tế
Nhật Bản đã lên tới 550 tỉ USD, tức là phần chênh lệch giữa 4200 tỉ USD với
tốc độ tăng trưởng thực tế 1% một năm hiện hành và 4750 tỉ USD với tốc độ
tăng 3 % một năm tính theo tiềm năng. Nếu so con số này với quy mô (GNP
hàng năm) của một nền kinh tế châu Á khác ta sẽ thấy rõ được sự mất mát của
Nhật Bản to lớn tới mức nào: Hàn Quốc 443 tỉ USD, Đài Loan 284 tỉ USD,
Indonexia 215 tỉ USD, Thái Lan 164 tỉ USD, Malaysia 98 tỉ USD và Philippin
83 tỉ USD. Như vậy, phần mất mát của Nhật Bản lớn hơn GDP của tất cả các
nền kinh tế châu Á khác, trừ Trung Quốc, hay nói cách khác, phần GDP 550
tỉ USD của Nhật Bản bị mất từ năm 1990 - 1997 là gần bằng của Thái Lan,
Malaysia, Indonexia và Philippin cộng lại. Còn bây giờ nếu chúng ta tưởng
tượng có một nền kinh tế mới nào đó có quy mô 550 tỉ USD xuất hiện ở châu
Á từ năm 1997, thì nền kinh tế đó sẽ là nền kinh tế đứng thứ 3 khu vực sau
Nhật Bản và Trung Quốc, và là một trong 10 nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Chính sự mất mát kinh khủng đó đã khiến người ta gọi “thập kỉ 90 là thập kỉ
mất mát (lost decade)” của nền kinh tế Nhật Bản.
Nếu năm 1990, GDP của Nhật Bản đạt 3860 tỉ USD, bằng 70% GDP
của Mỹ (5520 tỉ USD), thì đến năm 1997 chỉ đạt có 4200 tỉ USD, giảm còn
54% so với GDP của Mỹ (7740 tỉ USD), tức giảm cực mạnh tới 16 điểm phần
SV: CaoThị Hải Yến
K34A - Khoa lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp
15
trăm trong vòng 7 năm. Nếu xu hướng này vẫn còn tiếp tục thì theo nhiều
đánh giá, trong vòng 7 năm nữa, GDP của Nhật Bản chỉ bằng 50% của Mỹ.
Chiếm tỉ trọng 14% trong GDP toàn thế giới, suy thoái của nền kinh tế
Nhật Bản đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế toàn cầu và khu vực, làm GDP
thế giới giảm 0,4 % năm 1998. Đối với Mỹ, châu Âu, Nhật Bản là một bạn
hàng thương mại lớn, việc nhu cầu trong nước của Nhật Bản suy giảm mạnh
là một nguy cơ dẫn đến sự gia tăng thâm hụt trong cán cân thương mại song
phương, gây bất lợi cho sự phát triền kinh tế, đặc biệt là Mỹ. Đối với khu vực
châu Á, Nhật Bản là đầu tàu phát triển kinh tế, đồng thời đóng vai trò trụ cột
trong việc giữ gìn sự ổn định, an ninh chung của khu vực. Suy thoái kinh tế
của Nhật Bản đã làm giảm luồng đầu tư trực tiếp vào khu vực, thu hẹp xuất
khẩu, do đó làm giảm động lực phục hồi và tăng trưởng của các nước trong
khu vực, trong đó có Việt Nam.
1.2.2. Khủng hoảng trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ
Trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, tình hình càng ảm đạm hơn. Thị
trường bất động sản, cổ phiếu sụt giá mạnh từ sau sự đổ vỡ của nền kinh tế
bong bóng đã làm cho các tài sản thế chấp cho các khoản vay trong các ngân
hàng Nhật Bản mất tính thanh khoản, do đó hệ thống tài chính ngân hàng, các
quỹ tín dụng Nhật Bản phải đối mặt với những khoản nợ xấu khổng lồ. Theo
thống kê tiêu chuẩn quốc tế, tổng số nợ khó đòi hiện nay của các ngân hàng
Nhật lên tới 590 tỉ USD, chiếm 12,3% tổng số tiền cho vay, trong đó 87 tỉ
USD hầu như không có khả năng đòi lại được. Các ngân hàng,các tổ chức tài
chính Nhật Bản, trong đó có những ngân hàng lớn, luôn được coi là con cưng
của chính sách điều chỉnh của chính phủ, cũng không tránh khỏi số phận bị
phá sản hàng loạt, buộc phải sát nhập hoặc nhường bớt cổ phần cho các đối
tác nước ngoài, như: Ngân hàng tín dụng dài hạn (LTCB), Ngân hàng tín
SV: CaoThị Hải Yến
K34A - Khoa lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp
16
dụng Nippon, Công ty chứng khoán Sanyo… Trên thị trường chứng khoán,
chỉ số Nikkei sau khi tăng vọt lên mức 34.058 điểm năm 1989, đã giảm mạnh
và dao động trong khoảng 18.000 - 19.000 điểm giai đoạn 1992 - 1997, và
đến tháng 8/1998, đã giảm bất ổn định trên thị trường chứng khoán và sự suy
giảm lòng tin của các nhà đầu tư vào thị trường Nhật Bản. Đồng Yên Nhật
sau thời kì lên giá một cách đáng lo ngại ở mức 102 JPY/USD vào cuối năm
1999 đầu năm 2000.
Nếu như cách đây 10 năm, các nhà kinh tế học của Nhật Bản luôn
khẳng định rằng, vào năm 2000, TSPQD (GNP) của Nhật Bản có thể sẽ vượt
Mỹ. Các ông chủ của các tập đoàn kinh doanh Nhật Bản luôn đắc ý nói:
“Châu Mỹ là thị trường của chúng tôi, Châu Úc là cái mỏ của chúng tôi và
Châu Âu là viện bảo tàng của chúng tôi”; các phó giám đốc của hãng ôtô
Nissan luôn cười ranh mãnh và huyênh hoang khi hỏi các du khách Pháp:
“Các ông có nghĩ rằng liệu hãng Renault có thể tồn tại được quá 10 năm nữa
không?” [20, 213 - 214], thì ngày nay, thực tế Nhật Bản vẫn đang đuổi kịp
Mỹ , nhưng đó là nước Mỹ của những năm 30, nước Mỹ của thời Đại Suy
Thoái. Nếu những năm 80, là thời kì luôn tràn ngập thế giới của các mặt hàng
mang nhãn hiệu “Made in Japan”, và các công ty Nhật Bản đã lần lượt “mua
hết nước Mỹ” khiến cho trong một cuộc điều tra tại Mỹ năm 1989 của tờ
Newsweek, 54% trong số người Mỹ được hỏi ý kiến đã cho rằng sức mạnh
kinh tế của Nhật Bản được coi là một mối đe dọa lớn hơn so với vũ khí quân
sự của Nga, thì đến cuối những năm 90, các nhà tư bản Nhật, một thời huyênh
hoang đã phải nhẫn nhục bán hết công ty khổng lồ này đến công ty khổng lồ
khác của mình cho các nhà tư bản Âu - Mỹ. Chẳng hạn, chính hãng sản xuất
ôtô Renault của Pháp, không những không bị tiêu vong, mà còn mua tới 35%
số vốn của Nissan, đối thủ cạnh tranh của họ đang bên bờ vực phá sản; hãng
Ford đã nắm 35% số vốn của Mazda Geneal Motors chiếm 49% số vốn của
SV: CaoThị Hải Yến
K34A - Khoa lịch sử

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét