
Thứ Tư, 29 tháng 6, 2016
Nghiên cứu vật liệu chịu axit trên cơ sở quartz và polyme hệ na2o sio2 h2o
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
Khi thay đổi nhiệt độ và tải trọng tác dụng và vật liệu đủ để gây ra biến
dạng rõ rệt ở các phân tử chưa thoát khỏi phân tử lớn để chuyển động tự do
nhưng làm cho hệ có độ giãn nở cao. Nhiệt độ đủ để gây ra biến dạng đó là
nhiệt độ giòn tg của polyme. Polyme tồn tại ở nhiệt độ cao hơn nhiệt độ giòn
sẽ có biến dạng dẻo do tinh hóa tz, thì năng lượng chuyển động nhiệt của phân
tử đủ lớn làm cho tập hợp của các phân tử chuyển động, đến khi nhiệt độ lớn
hơn tz thì sẽ có chuyển động tự do của các phân tử nhỏ, polyme ở trạng thái
dẻo và biến dạng thuận nghịch. Đây chính là nhiệt độ giới hạn gia công của
polyme tạo sản phẩm.
Trong trạng thái biến dạng thuận nghịch, năng lượng nhiệt đủ lớn để
các phân tử chuyển động tự do và nhờ có sự quay của các phân tử lớn, biến
dạng dẻo phát triển nhanh trong toàn khối vật liệu. Thời gian lay động rất
nhỏ, do đó toàn bộ năng lượng dồn cho chuyển động tự do các phân tử (lớn và
nhỏ) lay động nhưng không thoát ra khỏi vị trí cấu trúc trong mạng.
Ở trạng thái chảy nhớt, các phân tử đều chuyển động. Sự dịch chuyển
này tùy thuộc vào kích thước phân tử. Khi sự chảy nhớt kèm theo sự quay các
phân tử lớn sẽ làm tăng tính biến dạng cho đến trạng thái chảy lỏng. Do đó độ
nhớt khi chảy lỏng sẽ tăng dần trong vật liệu polyme.
Polyme vô định hình sẽ ở nhiệt độ nhỏ hơn nhiệt độ chuyển hóa sang
dạng bán lỏng. Nhiệt độ thủy tinh hóa được xác định qua hai yếu tố:
-
Khả năng uốn khúc của khung xương và nhóm cạnh.
-
Độ thể tích tự do được xác định bằng các nhóm cạnh.
1.1.2. Công nghệ sản xuất vữa chịu axit trên cơ sở chất liên kết là polyme
vô cơ
Chất liên kết polyme vô cơ [11,14]
Polyme vô cơ được sử dụng đầu tiên vào thời kỳ Badarian ở Ai Cập, nó
là thủy tinh silicat kiềm được sử dụng như một loại men để tráng vòng trang
Nguyễn Thị Thu Trang
-11- K33C – Khoa Hóa học
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
sức. Cho đến thế kỷ XIX thì polyme vô cơ đã có những bước phát triển đáng
kể khi mà Thomas Graham lần đầu tiên công bố về natri polyphotphat còn
được biết đến dưới tên gọi muối madrell hay muối kurrol được Taman phát
hiện ra năm 1892. Từ những năm 1950, đã có nhiều công trình nghiên cứu để
tổng hợp polyme vô cơ gồm: polyphotphat, polysilicat, polyborat. Các vật
liệu này đóng vai trò quan trọng trong công nghiệp.
Polyme của hợp chất Si có rất nhiều loại như (SiC)n có cấu tạo tinh thể
hình khối lập phương, có tỉ trọng lớn hơn 3,2 g/cm3. Chúng có nhiệt độ chảy
lỏng rất cao 26000C và độ rắn chỉ sau kim cương, vì vậy thường được làm bột
mài, điện cực và có tính dẫn điện tốt. Cacbuasilic được chế tạo bằng cách đốt
nóng hỗn hợp cát thạch anh và cốc trong lò điện ở 18000C – 20000C theo
phản ứng:
SiO2 + 3C → 2CO + SiC
Ngoài Cacbuasilic, còn có Nitricsilic (S2N4)n cũng thuộc polyme rắn có
tỉ trọng 3,44g/cm3. Loại này rất bền hóa ở nhiệt độ 19000C mới bị phân hủy.
Phổ biến nhất trong các loại polyme của Silicat hay Natrisilicat. Loại
này được chế tạo rất đơn giản chỉ việc cho SiO2 tác dụng với kiềm ở nhiệt độ
thấp hay nhiệt độ cao tùy theo phương pháp khô hay ướt. Natrisilicat có thể
tồn tại ở dạng rắn lỏng.
Theo phương pháp ướt có Silicat ở dạng lỏng:
2NaOHdd + SiO2 → Na2SiO3dd + H2O
Theo phương pháp khô có phản ứng:
Na2CO3 + SiO2 → Na2SiO3 + CO2
Nếu đem Na2SiO3 rắn hòa tan trong nước được dung dịch nhớt gọi là
thủy tinh lỏng. Muốn có thủy tinh rắn phải thay đổi tỉ lệ mol giữa Na2O/SiO2
và thêm các phụ gia để làm giảm độ tan của Na2CO3 trong nước. Khi phân ly
trong nước Natrisilicat tạo ra các cation Na+ và các anion monome dưới dạng
Nguyễn Thị Thu Trang
-12- K33C – Khoa Hóa học
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
[H3SiO4]-. Khi dung dịch đặc hơn các mức độ polyme hóa khác nhau theo cơ
chế:
O- O- O- O-
│ │ │ │
HO─Si─OH + HO─Si─OH → HO─Si─O─Si─OH + H2O
│ │ │ │
OH OH OH OH
O- O- O- O- O- O-
│ │ │ │ │ │
HO─Si─OH + HO─Si─O─Si─OH→HO─Si─O─Si─O─Si─OH + H2O
│ │ │ │ │ │
OH OH OH OH OH OH
O- O- O-
│ │ │
HO─Si─OH + HO─Si─O ─ H → HO ─ Si─O ─ H + H2O
│ │ │
OH OH n OH
n+1
Cân bằng giữa các polyme và monome phụ thuộc vào nồng độ và pH
của dung dịch do môi trường có tác động làm thủy phân polyme. Axit silisic
là axit yếu nên ít bị phân ly do đó dung dịch Natrisilicat có tính kiềm, khi bị
axit hóa thì các cation Natri được thay thế bằng các proton, còn axit Silixic
tạo thành sẽ nhanh chóng tạo thành ngưng tụ để giải phóng nước và tạo gel
của poly axit Silixic dưới dạng xH2O.ySiO2. Chúng có cấu tạo mạch thẳng ở
dạng lớp hay không gian của tứ diện, bên trong tứ diện còn chứa một số nhóm
hydroxyl. Phân tử lượng của poly axit Silixic có thể đạt tới 107 hoặc cao hơn.
Độ bền vững của nó trong dung dịch phụ thuộc vào nồng độ pH của môi
trường.
Nguyễn Thị Thu Trang
-13- K33C – Khoa Hóa học
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
Khi pha loãng nồng độ sẽ tạo ra polyme có phân tử lượng thấp hơn. Gel
của poly axit Silixic ở pH= 5÷6 bị tách ra dới dạng kết tủa. Khi đốt cháy,
dung dịch gel bị trương nở trong nước và kèm theo quá trình ngưng tụ tiếp tục
để tách nước của poly axit Silixic. Khi mất nước hoàn toàn sẽ được polyme
xốp và giòn, chứa nhiều nhóm hydroxyl được dùng làm chất phụ gia tốt. Nếu
cho ngưng tụ đồng thời dung dịch axit Silixic và Nhôm hydroxyl sẽ tạo
polyme có cấu trúc không gian gọi là các Silicat phức tạp, có thể có cấu trúc
mắt xích, lớp hay không gian được dùng làm chất hấp phụ chọn lọc trong kĩ
thuật.
Nhận thấy những đặc điểm, tính chất ưu việt của polyme trên cơ sở Si.
Một xu hướng mới đưa ra để nghiên cứu và tổng hợp là các màng phủ trên
polyme Si. Các màng này được phủ trên bề mặt kim loại sẽ có nhiều ứng
dụng rộng rãi trong việc bảo vệ các thiết bị chịu ở nhiệt độ cao, chống lại sự
xâm thực, khả năng ăn mòn của môi trường trong các thiết bị chịu axit.
Màng phủ vô cơ trên cơ sở Silic chia làm 2 loại:
- Màng phủ trên cơ sở keo Si và kim loại kiềm.
- Màng phủ trên cơ sở keo Si và nhóm ankyl.
+ Màng phủ trên cơ sở keo Si và kim loại kiềm: Các kim loại kiềm
thường là: Natri, Kali, Liti. Quá trình tổng hợp màng trên cơ sở Si và kim loại
kiềm tương đối đơn giản, khi hòa tan trong nước chúng phụ thuộc vào tỷ lệ
của Silic và các oxit của các kim loại kiềm, khi tỷ lệ đó khác nhau thì sẽ tạo ra
các màng có tính chất khác nhau.
Sau đây là bảng tỷ lệ có thể sử dụng để tổng hợp các màng phủ [12]
Nguyễn Thị Thu Trang
-14- K33C – Khoa Hóa học
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
Bảng 1.2. Tỷ lệ thành phần nguyên liệu tạo màng phủ
Stt
Tên màng
Thành phần
Tỷ lệ
1
Natri Silic
SiO2:Na2O
(2,4÷4,5)/1
2
Kali Silic
SiO2:K2O
(2,1÷5,3)/1
3
Liti Silic
SiO2:Li2O
(2,1÷8,5)/1
+ Màng phủ trên cơ sở keo của Si và Ankyl: Các hợp chất tạo màng
trên keo Si-Ankyl: Methyl silicat, Etyl silicat… Với mỗi loại Ankyl khác
nhau. Tuy nhiên sự hình thành keo Si-Ankyl phụ thuộc vào hệ số: hàm lượng
nước, nồng độ axit, kích cỡ của nhóm Ankyl [12].
Cơ sở: (R: gốc Ankyl)
RO RO
│ │
R─O─Si─OH + H+ → R─O─Si─O(+)─H
│ │ │
RO RO H
RO RO RO RO
│ │ │ │
R─O─Si─O(+)─H + HO─Si─OR → RO─Si─O─Si─OR + H2O + H+
│ │ │ │ │
RO H RO RO RO
Ngoài ra các polyme axit Silixic còn phản ứng với ion Zn2+ tạo ra gel Silicat:
Nguyễn Thị Thu Trang
-15- K33C – Khoa Hóa học
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
HO OH OH OH OH
│ │ │ │ │
2HO─Si─O─Si─O─Si─O─Si─O─Si─O─OH + Zn+
│ │ │ │ │
HO OH OH OH OH
HO OH OH OH OH
│ │ │ │ │
HO─Si─O─Si─O─Si─O─Si─O─Si─OH
│ │ │ │ │
O OH OH OH OH
│
Zn + H2
│
O OH OH OH OH OH
│ │ │ │ │ │
HO─Si─O─Si─O─Si─O─Si─O─Si─OH
│ │ │ │ │ │
HO OH OH OH OH OH
+ Zn2+
Nguyễn Thị Thu Trang
-16- K33C – Khoa Hóa học

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Casinos with Slot Games - Xn-O80B910a26eepc81il5g.online
Trả lờiXóaBest Online Casinos With 카지노 Slot Games · 1. Unibet Casino: Best New ボンズ カジノ Online Casino in Canada · 2. Vivo Casino: Best for Slots · 3. Slots of Vegas: 카지노사이트 Best for