
Thứ Hai, 13 tháng 6, 2016
Chính sách cấm đạo của mạc phủ tokugawa (nhật bản) nửa đầu thế kỷ XVII
Khóa luận tốt nghiệp
Trêng §¹i häc S ph¹m Hµ Néi 2
lược sắc sảo cùng sự cân nhắc kĩ lưỡng, Ieyasu quyết định xây dựng dinh cơ tại Edo
(Tokyo) ở nơi đây có những điều kiện tốt cho phát triển nông nghiệp do đất đai màu
mỡ, vị trí địa lý án ngữ những con đường quan trọng, nơi đây trở thành trung tâm
chính trị của Nhật Bản, cho nên thời kì này được gọi với tên Edo jidai (thời đại Edo,
được đặt cho thời kì Tokugawa).
Trong quá trình hoàn thành đại nghiệp thống nhất đất nước, Tokugawa
Ieyasu đã có những nỗ lực lớn để củng cố sức mạnh của chính quyền phong kiến
trung ương nhằm đạt tới sự điều hành hữu hiệu, trực tiếp của chính quyền trung
ương với địa phương thông qua một cơ chế vận động song song: Mạc phủ, đứng
đầu là tướng quân (shogun) Tokugawa ở Edo và các lãnh chúa (daimyo) cai quản
260 lãnh địa (han). Cơ chế chính trị có tính chất quân phiệt đó được gọi là Bakuhan
taisei (Mạc phiên thể chế hay Chế độ Mạc phủ - công quốc), cơ sở tồn tại của chế
độ này chính là dựa vào lòng trung thành tuyệt đối của đẳng cấp võ sĩ và sự cân
bằng quyền lực giữa trung ương - địa phương ở cả hai vấn đề quan trọng là chính trị
và kinh tế.
Trong điều kiện lịch sử mới, Mạc phủ Edo không ngừng hoàn thiện bộ máy
chính quyền cùng các biện pháp quản chế của mình, đến đời tướng quân thứ ba,
Tokugawa Iemitsu (1604 - 1551) cơ chế chính trị được thiết lập theo lối quân sự đã
phát triển tương đối hoàn thiện. Trong đó, ở cấp trung ương có ba cơ quan chính:
Roju (Nguyên lão, tức Hội đồng nguyên lão) gồm từ 4 đến 5 thành viên (toshiyori,
niên ký). Chức năng chủ yếu của Hội đồng là giúp tướng quân giải quyết các vấn đề
lớn có tính chất quốc gia, duy trì quan hệ với Thiên hoàng (tenno) cũng như với
lãnh chúa địa phương. Cơ quan thứ hai là wakadoshiyori (Nhược niên ký, tức Hội
đồng tư vấn), gồm 4 đến 6 thành viên, có nhiệm vụ giám sát hoạt động của bộ máy
hành chính, lực lượng võ sĩ hatamoto (kỳ bản) và gokenin (ngự gia nhân) đặt dưới
sự quản lý trực tiếp của tướng phủ và jisa buygo (phụ trách các vấn đề lễ nghi, tôn
giáo). Bên cạnh đó còn có hyojoso là Hội đồng xét xử với thành viên bao gồm
những người thuộc roju và một quan chức cao cấp (bugyo) đại diện cho chính
quyền Mạc phủ phụ trách các cơ quan, đơn vị hành chính. Hyojoso vừa có chức
năng lập pháp vừa có chức năng hành pháp đảm đương những nhiệm vụ như Tối
§oµn M¹nh Quúnh
11
K35CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp
Trêng §¹i häc S ph¹m Hµ Néi 2
cao pháp viện. Đứng đầu bộ máy hành chính đó là tairo (Nhiếp chính) làm chức
năng tư vấn cho shogun, đặc biệt khi shogun còn ít tuổi. Với cơ chế hành chính đó,
thông qua các quan giám sát (ometsuke…) chính quyền Edo có thể quản lý chặt chẽ
đến các địa phương và từ lãnh chúa địa phương đến từng làng.
Trong nhiều chính sách mà Mạc phủ thực hiện để thâu tóm quyền lực về tay
mình thì phải kể đến Ieyasu đã buộc các lãnh chúa phải ký cam kết trung thành với
chế độ Mạc phủ sau năm 1600. Bộ luật Vũ gia được ban hành 15 năm sau cũng là
một bước tiến nữa nhằm khẳng định bổn phận, hành vi của đẳng cấp võ sĩ cũng như
các đẳng cấp khác trong xã hội. Chế độ sankin kotai (Tham cần giao đại hay Luân
phiên trình diện) được luật lệ hóa cho một phương cách cai trị rất điển hình của chế
độ phong kiến Nhật Bản. Những năm đầu thời kì Edo, sankin kotai chỉ được thể
hiện như là sự tự nguyện của các lãnh chúa phong kiến về Edo để bày tỏ lòng trung
thành của mình với chủ tướng. Nhưng sau đó, chế độ trình diện ngày càng được quy
định chặt chẽ và từ năm 1635 trở đi sankin kotai trở thành bổn phận bất khả kháng
của tất cả các lãnh chúa. Đây thực chất là chế độ con tin, trong những thời gian quy
định, các lãnh chúa đều phải về Edo để trình diện tướng quân. Sau đó họ lại được
trở về lãnh địa của mình nhưng phải để vợ con ở lại tư dinh thứ hai tại Edo… Thông
qua việc thực hiện chính sách này, Mạc phủ có thể kiểm soát chặt chẽ các lãnh chúa
địa phương, làm suy giảm tiềm lực kinh tế và đồng thời làm giảm thiểu khả năng
chống đối của họ.
Nhằm bảo đảm lâu dài địa vị thống trị hợp pháp, Mạc phủ còn ra sức tranh
thủ sự ủng hộ và uy tín của Thiên hoàng trong việc giải quyết các vấn đề chính trị
cũng như kinh tế. Được Thiên hoàng giao quyền quản lý đất nước, Mạc phủ Edo
luôn có vị trí chính trị tối ưu so với các lãnh chúa khác ở Nhật Bản. Tuy vậy, trong
cách ứng xử, tướng quân bao giờ cũng tỏ ra hết sức tôn vinh vị thế truyền thống của
Thiên hoàng. Vì “nguồn gốc cao quý của Nhật hoàng thấm sâu trong truyền thống
và ý thức dân tộc, là biểu tượng cho sự thống nhất và tinh thần đoàn kết quốc gia đã
khiến cho các tướng quân dù có tham vọng tới đâu cũng phải tính toán cẩn trọng
trong các bước đi chính trị. Hơn thế nữa, ở một nước biệt lập như Nhật Bản, luôn bị
chia cắt bởi những thế lực cát cứ thì vị trí cao quý và quyền lực của Thiên hoàng là
§oµn M¹nh Quúnh
12
K35CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp
Trêng §¹i häc S ph¹m Hµ Néi 2
“điều kiện cần” để dung hòa các xung đột. Trong ý nghĩa đó, tướng quân được coi
là kẻ bề tôi của Thiên hoàng không thể đi ngược lại nguyên tắc tối thượng nêu
trên”.[6; 153]
Chính quyền Mạc phủ nắm quyền quản lý trực tiếp về ruộng đất (ngoài
những vùng đất dùng để phân phong cho thuộc hạ, với tư cách là lãnh chúa lớn
nhất, tướng quân cũng có sở hữu tới 6.480.000 koku, khoảng 25% tổng sản lượng
nông nghiệp) nhưng Mạc phủ vẫn thường xuyên bảo đảm nguồn tài chính thường
xuyên cho giới quý tộc hoàng gia nhằm kiểm soát chặt chẽ hơn những đối tượng
này, hơn nữa, cắt đứt mọi quan hệ của triều đình Kyoto với các lãnh chúa có thế lực
khác.
Đối với các địa phương, trên cơ sở mối quan hệ thân tộc và thái độ của từng
lãnh chúa trước khi trận Sekigahara kết thúc, Mạc phủ chia các lãnh chúa thành 3
loại: Simpan (thân phiên) gồm 23 lãnh chúa là họ hàng con cháu gia tộc Tokugawa.
Dẫn đầu trong các simpan là 3 han “ngự tam gia”: Mito, Owari, Kii (chiếm giữ
những vị trí địa lý chiến lược, được hưởng nhiều đặc quyền kinh tế và là nơi nối
nghiệp tướng quân trong trường hợp dòng chính ở Edo không có người thừa kế).
Tiếp đến là các fudai daimyo (phổ đại), gồm 145 lãnh chúa, là đồng minh của
Ieyasu trước năm 1600. Cuối cùng là tozama daimyo (ngoại phiên) gồm 97 lãnh
chúa, chỉ chịu thần phục sau thất bại tại trận chiến Sekigahara, chính quyền Edo rất
cảnh giác với các lãnh chúa ngoại phiên và thuyên chuyển họ ra xa khỏi trung tâm
chính trị - kinh tế của đất nước và bố trí những lãnh chúa thân tín giám sát. Sự bố trí
đan xen giữa các simpan, fudai và tozama daimyo ở nhiều vùng lãnh thổ khác nhau
cũng như việc thực hiện thuyên chuyển lãnh chúa của chính quyền Edo chính là
nhằm để kiềm chế, ngăn chặn mọi khả năng có thể dẫn đến sự hình thành các liên
minh chống đối. Qua việc thực hiện các biện pháp trên đây, “Mạc phủ còn muốn
chứng tỏ uy lực của mình với vai trò là người nắm quyền sở hữu cao nhất về ruộng
đất ở Nhật Bản”. [6; 156 - 157]
Mong muốn xây dựng cho thể chế một nền tảng tư tưởng vững chắc nhằm
quy phục các tầng lớp trong xã hội, Mạc phủ cho khôi phục lại những hệ tư tưởng
truyền thống trước đây bị lụi tàn hay chưa có điều kiện phát triển như: Phật giáo,
§oµn M¹nh Quúnh
13
K35CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp
Trêng §¹i häc S ph¹m Hµ Néi 2
Nho giáo… Các tướng quân cũng rất chú ý sử dụng các nhà sư hay Nho sĩ làm cố
vấn cho chính quyền. Nhận thấy sự thay đổi của hoàn cảnh đất nước, hòa bình được
củng cố một lực lượng lớn võ sĩ buộc phải thay đổi, chính vì vậy mà chính quyền
trung ương đã khuyến khích sự phát triển học vấn. Mạc phủ cho xây dựng nhà học
thờ Khổng tử ở khắp nơi tạo điều kiện cho việc phát triển Nho học, hình thành nên
một tầng lớp nho sĩ mới có đủ khả năng gánh vác được công việc của đất nước. Sự
ổn định và vững mạnh của chính quyền là điều kiện tốt cho các hoạt động kinh tế xã
hội được khôi phục và phát triển sau một thời gian dài nội chiến.
Khoảng giữa những năm 30 của thế XVII, do những tác động của chính trị,
kinh tế và tôn giáo (vấn đề đạo Thiên Chúa); lường trước những thách thức từ nội
bộ đất nước cũng như từ bên ngoài mang lại, tướng quân Tokugawa Iemitsu đã ban
hành lệnh tỏa quốc (sakoku) để ngăn chặn những ảnh hưởng từ bên ngoài đối với
đất nước, hạn chế những thiệt hại mà Nhật Bản phải chịu sau thời gian mở cửa năng
động của mình từ cuối thế kỉ XVI.
Qua đây có thể thấy nền chính trị ổn định và một nhà cầm quyền vững mạnh
đã có những thúc đẩy tích cực cho sự phát triển của đời sống xã hội.
1.2. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI
Sự vững mạnh của chính quyền trung ương và một môi trường hòa bình ổn
định đã có tác động tích cực đến quá trình khôi phục kinh tế sau hàng thập kỉ nội
chiến. Đầu thế kỉ XVII, sự phát triển kinh tế xã hội là một điểm nổi bật. Các ngành
kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp đã có những bước nhảy vọt
đáng nể.
Được coi là ngành kinh tế “xương sống” của chế độ phong kiến, nông nghiệp
thời kì này phát triển nhanh về số lượng diện tích đất canh tác và sản lượng nông
nghiệp. Nếu so sánh “vào đầu thế kỉ X, diện tích đất canh tác ở Nhật Bản mới chỉ
đạt 860.000 ha, giữa thế kỉ XV là 950.000 ha đến năm 1600 đã vượt lên 1640.000
ha… cùng với sự mở rộng về diện tích, sản lượng lương thực của Nhật Bản đã tăng
lên rõ rệt, năm 1600, tổng sản lượng lương thực đạt khoảng 19,7 triệu koku” [4;
203]. Có được kết quả trên là do chính sách khuyến khích khai hoang và tận dụng
§oµn M¹nh Quúnh
14
K35CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp
Trêng §¹i häc S ph¹m Hµ Néi 2
mọi nguồn đất đai của Mạc phủ, hơn nữa “nhờ áp dụng guồng quay nước nên nhiều
vùng có thể canh tác hai vụ trong một năm, nhiều giống cây mới được đưa vào gieo
trồng, diện tích canh tác và sản lượng nông nghiệp tại các lãnh địa tăng lên đáng
kể. Sự phát triển của nông nghiệp làm nền tảng quan trọng thúc đẩy các ngành thủ
công nghiệp, thương nghiệp phát triển, ngày càng đóng vai trò quan trọng trong
đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của Nhật Bản”. [6; 14]
Khác với nhiều nước châu Á “về căn bản nông nghiệp Nhật Bản là nền kinh
tế nông nghiệp thung lũng, khó cung cấp nước, đất gieo trồng hạn hẹp, thiếu những
đồng bằng lớn và cũng rất không thuận lợi cho việc khai phá vùng đất ven biển để
mở rộng không gian sinh tồn” [6; 164]. Nguyên nhân chủ yếu là Nhật Bản không có
được những dòng sông lớn với thủy lượng cao, giàu phù sa để có thể tạo nên đồng
bằng châu thổ phì nhiêu như ở Trung Quốc hay nhiều quốc gia Đông Nam Á khác.
Nền tảng của văn hóa Nhật Bản về cơ bản vẫn là văn hóa nông nghiệp trồng
lúa nước. Xem xét các điều kiện tự nhiên có thể thấy: “Do có nhiều đồi núi, diện
tích đất canh tác hạn hẹp nên người Nhật đã sớm có ý thức sâu sắc về đồng đất,
sớm biết kĩ thuật thâm canh và triệt để tận dụng hiệu suất đất canh tác. Những
ruộng bậc thang cao thấp hiện còn trên khắp lãnh thổ Nhật Bản chính là kết quả
của quá trình lao động bền bỉ bởi biết bao thế hệ để đưa cây lúa nước lên đồi. Khác
với Việt Nam, về căn bản kinh tế nông nghiệp Nhật Bản là kinh tế nông nghiệp
thung lũng. Môi cảnh sống tự nhiên trong các thung lũng đã quy định nên tập quán
canh tác, lối sống và kết cấu xã hội. Đời sống sản xuất nông nghiệp và nhu cầu cần
phải có một sự điều hành thống nhất trong việc sử dụng các nguồn nước tưới cũng
góp phần cố kết tính cộng đồng làng, tinh thần tương trợ trong mỗi người Nhật.
Tâm lý hướng vào cộng đồng, coi trọng trách nhiệm với cộng đồng cũng đã dần
được hình thành” [6; 38].
Làng Nhật Bản, cũng như bao làng quê trong xã hội nông nghiệp châu Á
không chỉ đơn thuần là một đơn vị cư trú bao gồm nhiều hộ tiểu nông mà còn là một
tổ chức sản xuất trên cơ sở địa vực. Trong điều kiện đất đai hạn hẹp, người Nhật
luôn có ý thức sâu sắc về lãnh thổ và địa bàn cư trú của mình. Trong sự phát triển
tương đối độc lập của các lãnh chúa thời Edo, làng là điểm mút cuối cùng của hệ
§oµn M¹nh Quúnh
15
K35CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp
Trêng §¹i häc S ph¹m Hµ Néi 2
thống quản chế đồng thời cũng là thực thể quan trọng nhất để các cấp chính quyền
có thể kiểm nghiệm tính thiết thực và hiệu quả của những chính sách ban ra. Sự
phát triển của kinh tế hàng hóa và những nhân tố xã hội mới đã khiến cho không
gian kinh tế cũng như cơ tầng xã hội nông thôn truyền thống không ngừng biến đổi.
Là một nước châu Á, cơ sở kinh tế dựa vào sản phẩm nông nghiệp tự nhiên
trong tiến trình phát triển của lịch sử Nhật Bản, ruộng đất và quyền sở hữu nó bao
giờ cũng là vấn đề kinh tế cốt yếu nhất của chính quyền. Những cuộc chiến tranh
trước kia nổ ra cũng là do mâu thuẫn về quyền sử dụng ruộng đất của giới cầm
quyền địa phương. Trong quá trình thống nhất đất nước, hiểu rõ tầm quan trọng của
vấn đề này, Toyotomi Hideyoshi đã thực hiện những biện pháp kiên quyết để giành
lấy quyền ban cấp và sở hữu điền địa. Cuộc điều tra ruộng đất mà ông cho tiến hành
năm 1582 - 1598 đã đem lại những cơ sở quan trọng đầu tiên cho việc quản lý thống
nhất nhà nước về đất đai. Kế thừa thành tựu đó, các tướng quân Tokugawa cũng cho
tiến hành việc phân chia lại ruộng đất. Với việc làm này còn muốn xác định rõ các
loại hình ruộng đất, thống nhất cách phân định về chất lượng từng loại ruộng đất
(gồm nhất đẳng điền, nhị đẳng điền, hạ đẳng điền) cũng như chủ sở hữu trên mỗi
đơn vị diện tích để rồi từ đó đề ra các mức thuế thích hợp.
Thời Tokugawa Nhật Bản có khoảng 6300 làng. Quy mô các làng khác nhau
tùy theo thời gian và khu vực địa lý nhưng làng Nhật thường có từ 50 - 70 hộ với
chừng 400 nhân khẩu, có thu nhập bình quân 400 koku. Cương vực mỗi làng được
khẳng định, trên cơ sở chất lượng và diện tích ruộng đất canh tác đã được xác định.
Ở đây, làng được coi là đơn vị tính thuế chứ không phải là từng hộ nông dân cá thể.
Điều này khác rất nhiều so với Việt Nam là hộ nông dân chứ không phải làng là đơn
vị đóng thuế. Với chế độ đánh thuế theo từng làng làm cho quan hệ cộng đồng,
trách nhiệm cá nhân trong từng làng thêm chặt chẽ vì nếu hộ nào không đủ khả
năng đóng thuế theo mức quy định thì làng phải tìm cách bù vào khoản thiếu hụt đó.
Chế độ thuế khóa của chính quyền khá nặng nề, phức tạp. Do sự tự chủ của
các lãnh địa cho nên nhiều lãnh chúa đã đưa ra những mức thuế khác nhau, thuế rất
cao, họ có chế độ thuế riêng của mình thậm chí trong một công quốc mức thuế của
từng vùng cũng khác biệt. Người nông dân thường phải đóng: “5 loại thuế: denso
§oµn M¹nh Quúnh
16
K35CN Lịch sử

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét