
Chủ Nhật, 19 tháng 6, 2016
Biến đổi hình thức sở hữu ruộng đất ở miền nam việt nam từ 1954 đến 1975
Khóa luận tốt nghiệp
11
Hình thức đại sở hữu ruộng đất theo kiểu phong kiến đã không phát triển
được tiềm năng đất nông nghiệp. Diện tích đất nông nghiệp ở miền Nam lớn
hơn ở miền Bắc song do lối kinh doanh lạc hậu nên năng suất lúa trong thời kỳ
này không tăng, sản lượng lúa tăng chủ yếu do tăng diện tích trồng cây. Sự phát
triển chế độ đại sở hữu ruộng đất theo kiểu phong kiến ở Nam Kỳ chẳng những
làm cho nền sản xuất nói chung không phát triển lên được mà nó còn đào hố
sâu ngăn cách giữa nông dân và địa chủ, thúc đẩy nông dân vùng dậy đấu tranh
dưới sự lãnh đạo của Đảng để lật đổ ách thống trị của đế quốc thực dân phong
kiến xóa bỏ chế độ đại sở hữu ruộng đất theo kiểu phong kiến.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra kỷ nguyên mới
trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội đem lại
một cuộc đổi đời chưa từng có đối với mỗi người dân Việt Nam. Sau khi
giành được chính quyền và ngay từ những năm đầu của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), Đảng ta rất quan tâm đến vấn
đề ruộng đất cho nông dân. Dưới sự chỉ đạo của Đảng, nông dân đã thực hiện
từng bước cải cách dân chủ, thu hẹp dần thế lực kinh tế và chính trị của giai
cấp địa chủ. Ở miền Nam, phong trào kháng Pháp của nhân dân lên rất cao.
Nông dân miền Nam đã nổi dậy đấu tranh chống lại sự thống trị của thực dân
Pháp và bè lũ tay sai, chống lại áp bức của địa chủ phong kiến, thực hiện cải
cách dân chủ từng phần. Trước khí thế đấu tranh của nhân dân, hầu hết trung
và đại địa chủ đã bỏ vào thành phố, ruộng đất của chúng đã về tay nông dân.
Vận dụng chính sách ruộng đất của Đảng, Đảng bộ miền Nam một mặt
tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian phản động chia cho dân
nghèo, vận động địa chủ hiến điền và thực hiện giảm tô. Mặt khác, Đảng bộ
cũng chủ trương tạm giao ruộng đất vắng chủ cho nông dân. Những chủ
trương đó được quán triệt và thực hiện trong suốt thời kỳ kháng chiến chống
Pháp (1945 - 1954) và đã đạt được những kết quả to lớn. Tính đến 10/1954 số
SV: Nguyễn Thị Ngọc ánh
K34A CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp
12
ruộng đất của thực dân Pháp, Việt gian phản động và ruộng đất vắng chủ đã
được cách mạng cấp và tạm giao cho nông dân khoảng 750.000 ha ruộng đất.
Cùng với việc chia cấp ruộng đất, việc thực hiện giảm tô ở nông thôn miền
Nam có ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế, nâng cao đời sống của nông dân tá
điền. Trong những năm (1946 - 1954) mức tô ở nông thôn miền Nam đã giảm
từ 25 đến 50% so với mức tô trước Cách mạng tháng Tám.
Rõ ràng qua chính sách giảm tô, chính sách ruộng đất của chính quyền
cách mạng, hình thức sở hữu ruộng đất theo kiểu phong kiến ở miền Nam đã
bắt đầu quá trình tan rã và sụp đổ. Nông dân được chia cấp và tạm giao ruộng
đất, đời sống được cải thiện. Thành quả về ruộng đất mà nông dân lao động
miền Nam giành được từ Cách mạng tháng Tám đến kháng chiến chống Pháp
thắng lợi mới chỉ là kết quả bước đầu. Tình hình ruộng đất ở miền Nam đã có
sự thay đổi nhưng chế độ đại sở hữu ruộng đất vẫn chưa bị xóa bỏ hẳn, phần
lớn địa chủ mới bỏ chạy vào thành phố chứ chưa bị tiêu diệt. Nông dân được
chia ruộng đất nhưng mới chỉ là tạm giao.
Tuy vậy, thành quả cách mạng ruộng đất từ sau Cách mạng tháng Tám
năm 1945 đã để lại ảnh hưởng sâu sắc đối với nông dân miền Nam, tạo nguồn
sức mạnh vô tận cho cuộc chiến đấu chống Mỹ sau này.
1.2. BIẾN ĐỔI HÌNH THỨC SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT Ở MIỀN NAM
VIỆT NAM TỪ 1954 ĐẾN TRƢỚC NĂM 1959
1.2.1. Chính sách ruộng đất của Mỹ - Diệm
Sau hiệp định Giơ-ne-vơ (1954), Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành
hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác biệt nhau: miền Bắc được hoàn
toàn giải phóng tiến lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam Việt Nam tạm thời đặt
dưới sự cai trị của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Ngay từ khi tiến hành
công cuộc “bình định” miền Nam, đế quốc Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm lên
cầm đầu chính quyền Sài Gòn và ráo riết thực hiện âm mưu biến miền Nam
SV: Nguyễn Thị Ngọc ánh
K34A CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp
13
Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Cả miền Nam bị dìm trong
máu lửa. Trong hàng loạt chính sách phản cách mạng của chính quyền tay sai
Mỹ ở miền Nam thì “Cải cách điền địa” đã được đặt lên hàng “quốc sách” và
được coi là “then chốt của cuộc cách mạng kinh tế ở miền Nam”.
Trong hai năm 1955 - 1956, chính phủ Mỹ đã cử một phái đoàn cố vấn
do W. Latdinxky sang miền Nam Việt Nam giúp chính quyền Sài Gòn soạn
thảo chính sách ruộng đất. Báo “Công luận” Sài Gòn ra ngày 7/7/1969 cho
biết : Từ năm 1955 đến 1960, Mỹ đã viện trợ 12 triệu đôla cho chính quyền
Sài Gòn để thực hiện “Cải cách điền địa” ý đồ của Mỹ thông qua cuộc cải
cách ruộng đất này là nhằm tranh thủ lôi kéo nông dân và tạo ra tầng lớp tư
sản nông thôn kinh doanh theo kiểu Mỹ hơn là duy trì giai cấp địa chủ canh
tác theo lối cổ hủ. Tuy nhiên do ý thức bảo thủ muốn duy trì chế độ địa chủ và
chế độ sở hữu ruộng đất theo kiểu phong kiến ở nông thôn để làm chỗ dựa
mới chính quyền Ngô Đình Diệm đã cho ra đời một chính sách ruộng đất
không đúng với ý đồ của Mỹ.
Chính sách “Cải cách điền địa” của Ngô Đình Diệm được thể hiện trong
ba đạo dụ: Dụ số 2 (8/1/1955), dụ số 7 (5/2/1955), dụ số 57 (22/10/1956). Ngô
Đình Diệm chia cuộc “Cải cách điền địa” ra làm 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1 (1955 - 1956): thi hành quy chế tá điền
Giai đoạn 2 từ năm 1956: “tư hữu hóa nông dân”, “tiểu điền chủ hóa tá
điền”
Giai đoạn 1 được đánh dấu bằng hai đạo dụ sau đây:
Dụ số 2 ra ngày 8/1/1955 quy định:
- Lập khế ước tá điền loại A (đối với ruộng thực đang làm)
- Thời hạn khế ước là 5 năm
- Mức tô từ 15 đến 25 %
SV: Nguyễn Thị Ngọc ánh
K34A CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp
14
- Bãi bỏ ủy ban điều giải đã được thành lập theo dụ số 20 của Bảo Đại
để thay vào đó bằng “Ủy ban nông vụ” từ tổng, quận đến tỉnh. Do cai tổng,
quận trưởng, tỉnh trưởng làm chủ tịch, có đại diện của địa chủ, nông dân tham
gia để giải quyết các vụ tranh chấp đất đai hướng đến lập khế ước. Theo lời
của sách báo chính quyền Diệm thì nội dung cơ bản của dụ số 2 là “việc lập
khế ước tá điền là để bảo vệ quyền lợi tá điền”
Dụ số 7 ra ngày 5/2/1955 ra đời nhằm hoàn chỉnh việc cướp đoạt ruộng
đất của nông dân trên cơ sở dụ số 2. Nếu như dụ số 2 quy định việc ký khế
ước tá điền với loại ruộng thực đang làm thì dụ số 7 quy định việc ký khế ước
với ruộng bỏ hoang.
Trong vòng một tháng, kể từ khi dụ này được ban hành địa chủ phải
khai báo về việc khai thác ruộng đất không trồng trọt của mình và trực tiếp
cho tá điền mượn ruộng theo khế ước loại B.
Trường hợp vắng mặt hoặc địa chủ cam kết không khai thác lại ruộng
đất sẽ được cấp cho những người di cư, cựu binh hoặc tá điền khai thác trong
thời hạn 3 năm. Người được cấp phải ký khế ước tá điền loại C với hội đồng
hương chính được miễn tô trong năm đầu, năm thứ hai phải đóng 1/2 tô, năm
thứ ba đóng 3/4 tô.
Địa chủ có thể trở lại bất cứ lúc nào để tiếp tục thi hành khế ước.
Ruộng công của làng cũng cho mướn theo khế ước loại C (đối với
ruộng hoang như trường hợp địa chủ vắng mặt)
Giai đoạn hai của cuộc “Cải cách điền địa” tiếp tục được thực hiện
thông qua dụ số 57 ra ngày 22/10/1956:
Dụ số 57 quy định mỗi địa chủ chỉ được giữ lại 100 ha ruộng đất ngoài
ra có thể giữ thêm 15 ha làm ruộng hương hỏa. Trong số 115 ha này địa chủ
có quyền lựa chọn bất cứ thửa ruộng nào tùy ý.
SV: Nguyễn Thị Ngọc ánh
K34A CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp
15
Ruộng “truất hữu” được chính phủ Sài Gòn bồi thường theo giá hiện
hành, tiền bồi thường sẽ trả 10% bằng tiền mặt số còn lại trả bằng tín phiếu
với lãi 5% hàng năm trong 12 năm.
Số ruộng “truất hữu” này sẽ đem bán cho những người thiếu ruộng mỗi
hộ không quá 3 ha. Người mua phải trả tiền mua đất trong 6 năm, trong thời
gian ấy ruộng đất vẫn thuộc quyền sở hữu của chính quyền Diệm. Trong vòng
10 năm đất không được cho mướn hay đem bán lại.
Như vậy qua dụ số 57 và hai đạo dụ số 2, số 7 có thể tóm tắt nội dung
“Quốc sách cải cách điền địa” của Diệm trong hai điểm:
1. Xác định bằng pháp lý mối quan hệ giữa địa chủ và tá điền (dụ số 2
và dụ số 7) cụ thể là quy định một loạt mẫu khế ước tá điền cho các trường
hợp mướn ruộng của địa chủ, mướn ruộng công hay mướn ruộng bỏ hoang
trong đó có ấn định mức tô phải nộp.
2. Ấn định một giới hạn vừa phải có lợi cho chế độ sở hữu ruộng đất
của địa chủ, giúp họ bán đi những ruộng đất vượt quá giới hạn đó [3, tr.36].
Thông qua những nét cơ bản trên, ta thấy các đạo dụ mà chính quyền
Mỹ - Diệm đưa ra cũng không hề đi xa hơn các đạo dụ mà Pháp - Bảo Đại đã
từng nêu ra, có chăng chỉ là sự bổ sung và sửa đổi về chi tiết. Xét về bản chất,
cả hai cuộc cải cách điền địa này đều mang tính chất cải lương chủ nghĩa. Đặt
trong hoàn cảnh của miền Nam Việt Nam thời kỳ bấy giờ, nó không những là
một lực lượng kìm hãm sự phát triển của lịch sử mà còn là một bước thụt lùi
trong lịch sử, một thủ đoạn phản cách mạng.
1.2.2. Sự phục hồi quan hệ sở hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ
miền Nam Việt Nam từ 1954 đến trƣớc năm 1959
Trong điều kiện lịch sử của miền Nam Việt Nam, nơi đã tiến hành một
bước quan trọng cuộc cách mạng ruộng đất do giai cấp công nhân lãnh đạo từ
sau Cách mạng tháng Tám năm 1945: “Vấn đề nông dân mà nội dung là vấn
SV: Nguyễn Thị Ngọc ánh
K34A CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp
16
đề ruộng đất đã được đặt ra và giải quyết theo đường lối cách mạng, giai cấp
địa chủ ở miền Nam căn bản đã bị xóa bỏ, kết cấu giai cấp nông thôn miền
Nam đã thay đổi người nông dân đã thật sự làm chủ ruộng đồng, làm chủ
ruộng đất thì các đạo dụ “Cải cách điền địa” của Diệm thực tế là muốn kéo
lùi bánh xe lịch sử” [13, tr.258]. Núp dưới chiêu bài “khế ước tá điền” Mỹ Diệm nhằm: “ hợp pháp hóa việc tước đoạt ruộng đất của nông dân xóa bỏ
ảnh hưởng của cách mạng trong nông thôn miền Nam, khôi phục lại quyền sở
hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ” [9, tr.17].
Các loại ruộng đất mà chính quyền cách mạng đã tạm cấp, tạm giao cho
nông dân nghèo, nay theo dụ số 2 và dụ số 7 của Diệm đều phải lập lại khế
ước tá điền. Mặt khác, trong khi mà mức tô trên phần lớn ruộng đất còn phát
canh đã bị giảm xuống dưới mức 25% hoa lợi, có nhiều trường hợp chỉ còn từ
10 - 15% thì việc áp dụng mức tô của dụ số 2 (15 - 25% hoa lợi) có nghĩa là
chính quyền Diệm đã cho phép tăng tô một cách phổ biến. Như vậy, việc lập
“khế ước tá điền” - giai đoạn 1 của cuộc “Cải cách điền địa” ở miền Nam đã:
“đoạt lại cho giai cấp đại chủ và thực dân trên 65 vạn ha mà chính quyền
cách mạng đã trao cho nông dân, khôi phục lại chế độ tá canh bắt hàng chục
vạn hộ nông dân quay trở lại vị trí tá điền” [13, tr.36].
Cải cách điền địa của Ngô Đình Diệm trong thực tế đã không chia cấp
ruộng đất cho tá điền như cách mạng đã làm, mà tá điền phải mua ruộng đất
với giá qui định. Trong dụ “Cải cách điền địa” thì mỗi năm nông dân phải trả
2000 đồng tương đương 50 giạ lúa. Đây là một điều khó thực hiện được với
nông dân nghèo. Cuối cùng họ lại mất ruộng. Rõ ràng, chính sách ruộng đất
của Diệm không đem lại ruộng đất cho tá điền mà chỉ quy định lại hình thức
tá điền trong giai đoạn mới.
Được chính quyền Diệm che chở, lợi dụng chính sách “Cải cách điền
địa”, những địa chủ chạy vào thành phố trong thời kỳ kháng chiến chống thực
SV: Nguyễn Thị Ngọc ánh
K34A CN Lịch sử

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét