
Thứ Tư, 15 tháng 6, 2016
Vai trò của phụ nữ tỉnh thái bình trong cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước giai đoạn 1965 1975
Khóa luận tốt nghiệp đại học
7
Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2
Khóa luận khôi phục lại quá trình tham gia thực hiện các nhiệm vụ lao động
sản xuất, xây dựng hậu phương vững mạnh góp phần chi viện cho tiền tuyến và
sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương của phụ nữ Thái Bình trong thời kỳ chống
Mỹ, cứu nước giai đoạn 1965 – 1975, từ đó khóa luận đưa ra kiến giải về:
- Vai trò, vị trí của phụ nữ Thái Bình trong phong trào đấu tranh chung của
dân tộc.
- Nêu rõ những nhân tố tác động phát huy tối đa vai trò của phụ nữ Thái Bình
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1965 – 1975.
5.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
- Khóa luận góp phần vào công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử địa phương
Thái Bình và phụ nữ Thái Bình, giúp cho công tác nghiên cứu, biên soạn về phụ
nữ Thái Bình được phong phú hơn.
- Thông qua việc nghiên cứu về vai trò của phụ nữ Thái Bình, khóa luận góp
phần giáo dục thế hệ trẻ về truyền thống của nhân dân Thái Bình và phụ nữ Thái
Bình. Đó là lòng tự hào về truyền thống thông qua việc tìm hiểu những trang sử
vẻ vang của các thế hệ đi trước. Điều đó góp phần to lớn vào việc hình thành
nhân cách và xây dựng lý tưởng cho thế hệ trẻ hôm nay.
6. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, khóa luận chia làm
2 chương:
- Chương 1: Khái quát về tỉnh Thái Bình và phụ nữ Thái Bình trong lịch sử
- Chương 2: Vai trò của phụ nữ Thái Bình trong kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước giai đoạn 1965 – 1975
Trần Thị Nhung
K35 CN Lịch Sử
Khóa luận tốt nghiệp đại học
8
Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ TỈNH THÁI BÌNH VÀ TRUYỀN THỐNG CỦA
PHỤ NỮ THÁI BÌNH TRONG LỊCH SỬ
1.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - VĂN HÓA – XÃ HỘI CỦA
TỈNH THÁI BÌNH
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Thái Bình là một tỉnh đồng bằng ven biển, nằm ở phía nam đồng bằng châu
thổ sông Hồng, phía đông giáp vịnh Bắc Bộ, phía tây và phía nam giáp Hà Nam
Ninh, phía bắc giáp Hải Dương và Hải Phòng, nằm ở 200 17’ – 200 43’ độ vĩ bắc,
1060 10’ – 1060 39’ độ kinh đông. Tính từ tây sang đông, Thái Bình có chiều dài
54 km, tính từ bắc đến nam thì chiều dài là 49 km. Diện tích đất đai của tỉnh
rộng 1.459 km2 [8, tr.226]. Địa hình bằng phẳng, Thái Bình là tỉnh duy nhất của
Bắc Bộ không có núi rừng, do đây là vùng đất được hình thành bởi quá trình bồi
đắp phù sa của các con sông (sông Hồng, sông Luộc, sông Hóa và sông Trà Lý).
Vì vậy, đất đai của tỉnh rất màu mỡ, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp.
Thái Bình là một tỉnh có bốn bề sông nước bao quanh (một mặt giáp biển, ba
mặt giáp sông Hồng, sông Luộc, sông Hóa), giữa tỉnh có con sông Trà Lý chảy
qua và có hệ thống sông, kênh dày đặc với tổng chiều dài của sông ngòi lên tới
8.492 km, bình quân từ 5 km đến 6 km/km2 , tạo nguồn nước tưới tiêu thuận lợi
cho việc trồng cấy quanh năm. Đây là tính chất cô lập như một hòn đảo nhỏ của
tỉnh khiến giao thương giữa Thái Bình và các tỉnh khác bị hạn chế. Hiện nay với
hệ thống cầu hiện đại, hạn chế này đã được khắc phục.
Về mặt khí hậu, Thái Bình nằm trong miền khí hậu nhiệt đới gió mùa, độ ẩm
cao, lượng mưa lớn là điều kiện thuận lợi cho cây cối hoa màu phát triển bốn
mùa, thu hoạch quanh năm.
Trần Thị Nhung
K35 CN Lịch Sử
Khóa luận tốt nghiệp đại học
9
Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2
Bờ biển Thái Bình dài 50 km, bãi biển bằng phẳng, phù sa bồi ra biển tạo
điều kiện thuận lợi cho việc khẩn hoang, quai đê lấn biển lập làng. Trong lòng
đất của Thái Bình ở huyện Tiền Hải có khí đốt tạo điều kiện cho phát triển công
nghiệp. Ngoài ra, còn phải kể đến nguồn tài nguyên nước khoáng và than. Tỉnh
còn có bãi tắm Đồng Châu, tuy còn hoang sơ nhưng cũng là điều kiện thuận lợi
cho nghỉ mát và du lịch.
Những điều kiện tự nhiên trên đã tạo cho Thái Bình nhiều tiềm năng để phát
triển kinh tế - xã hội một cách tương đối toàn diện, trong đó nông nghiệp là
ngành tập trung nhiều thế mạnh hơn cả. Bởi Thái Bình không có rừng núi, lại có
bốn bề sông nước bao quanh, khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, lượng mưa lớn.
Điều đó lý giải vì saoThái Bình đã sớm trở thành nơi tập trung sản xuất lúa gạo
ở đồng bằng Bắc Bộ và trải qua các thời kỳ lịch sử, Thái Bình luôn giữ vững vị
trí là tỉnh tiên phong trong nông nghiệp.
1.1.2. Điều kiện kinh tế - văn hóa – xã hội
Với điều kiện thuận lợi về khí hậu, đất đai, sông ngòi đã tạo thuận lợi cho
Thái Bình phát triển nền sản xuất nông nghiệp với cây lúa là cây trồng chủ đạo.
Cây lúa đã theo con người về đứng chân trên vùng đất Thái Bình từ hàng nghìn
năm nay và đã tỏ rõ vai trò to lớn trong nền kinh tế của tỉnh, đưa Thái Bình trở
thành nơi nổi tiếng về nghề trồng lúa, thâm canh lúa giỏi và được gọi là “kho
người vựa lúa”, “kho lúa gạo” của đồng bằng Bắc Bộ. Thái Bình nổi tiếng với
nhiều sản vật nông nghiệp như dưa Quài, gà Tó, khoai Bái, lợn Tò, chè Mét…
Từ xưa, nhà bác học Lê Quý Đôn đã ghi chép được hàng trăm loại giống lúa
trong tác phẩm “Vân đài loại ngữ” nổi tiếng của ông, trong đó có khá nhiều
giống lúa ở Thái Bình. Trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, Thái Bình vẫn
luôn giữ vững vị trí là trung tâm sản xuất lúa gạo ở đồng bằng Bắc Bộ, mà danh
hiệu “Quê hương 5 tấn” Thái Bình đã đạt được trong kháng chiến chống Mỹ là
minh chứng thuyết phục nhất cho nhận định này. Hiện nay, cây lúa cũng vẫn là
Trần Thị Nhung
K35 CN Lịch Sử
Khóa luận tốt nghiệp đại học
10
Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2
cây trồng chủ đạo của tỉnh trong nông nghiệp, bên cạnh đó đã xuất hiện nhiều
loại cây khác được trồng theo kiểu xen canh, gối vụ nhằm đem lại năng suất cao
hơn như dưa chuột, ớt, đỗ, hành…
Trong cơ cấu nền kinh tế thì kinh tế nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao hơn
hẳn so với công nghiệp và dịch vụ. Năm 2012, nông nghiệp chiếm 36,2% trong
khi công nghiệp và dịch vụ lần lượt là 32,5% và 29,3% [8, tr.250]. Công nghiệp
của tỉnh tập trung vào công nghiệp nhẹ với sự xuất hiện của nhiều nhà máy,
công ty dệt may. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh đã có 8 khu công nghiệp, đó là: khu
công nghiệp Phúc Khánh, khu công nghiệp Nguyễn Đức Cảnh, cụm công nghiệp
Phong Phú, khu công nghiệp Tiền Hải, khu công nghiệp Cầu Nghìn, khu công
nghiệp Gia Lễ, khu công nghiệp Diêm Điền và khu công nghiệp Sông Trà. Sự
phát triển của công nghiệp nặng ở Thái Bình còn hạn chế.
Như vậy, có thể thấy rằng, nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế then chốt, giữ vị
trí quan trọng hàng đầu trong nền kinh tế của Thái Bình. Một nền nông nghiệp
phát triển với cây lúa là cây trồng chủ đạo đã tác động không nhỏ tới việc hình
thành tính cách của người dân Thái Bình. Đó là những đức tính cần cù, nhẫn nại,
kiên trì, chịu thương chịu khó được thể hiện trong lao động và cuộc sống hàng
ngày. Những phẩm chất ấy cũng đã được người dân Thái Bình phát huy cao độ
trong các cuộc đấu tranh giữ nước, góp phần cùng với cả dân tộc làm nên những
chiến thắng vẻ vang.
Về dân cư, ở Thái Bình không có cư dân bản địa sinh sống do quá trình hình
thành đồng bằng muộn nhưng với ưu thế của vùng đất ven biển, phù sa màu mỡ
nên Thái Bình đã thu hút dân cư ở khắp nơi về khai phá lập làng. Có hai luồng
dân cư chủ yếu vào tụ cư và hợp cư ở Thái Bình. Đó là luồng cư dân từ miền
trung du xuống và luồng cư dân từ biển vào. Địa bàn tụ cư của lớp cư dân đầu
tiên đến vùng đất này chủ yếu ở nơi gò cao phần lớn thuộc đất đai của các huyện
Trần Thị Nhung
K35 CN Lịch Sử
Khóa luận tốt nghiệp đại học
11
Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2
Hưng Hà, Quỳnh Phụ, Vũ Thư, Đông Hưng ngày nay. Mật độ dân số ở Thái
Bình khá cao, chỉ đứng sau Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh [8, tr.265].
Nhân dân Thái Bình từ bao đời nay đã mang trong mình nhiều truyền thống
tốt đẹp. Đó là truyền thống khẩn hoang, trị thủy lập làng, thâm canh sản xuất
nông nghiệp; truyền thống hiếu học và một nền văn hóa nghệ thuật phong phú
đặc sắc; truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm bảo vệ quê hương đất nước.
Ngay từ thời Bà Trưng, Bà Triệu, nhân dân Thái Bình đã tham gia khởi nghĩa,
đánh đuổi giặc xâm lược. Trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, bất cứ khi nào
Tổ quốc có giặc ngoại xâm là nhân dân Thái Bình lại tham gia tích cực vào các
đội quân khởi nghĩa, kháng chiến, chiến đấu chống các thế lực ngoại bang xâm
lược. Từ sau giải phóng (1975) đến nay, đất nước được thống nhất và độc lập tự
do, nhân dân Thái Bình lại cùng nhân dân cả nước đi theo đường lối đúng đắn
của Đảng, tiếp tục cố gắng vươn lên để đạt những thành tích mới. Là một bộ
phận của dân cư nên phụ nữ Thái Bình cũng mang đầy đủ những truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, quê hương và là một lực lượng đóng vai trò quan trọng trong
quá trình hình thành, xây dựng và phát triển quê hương Thái Bình.
1.2. TRUYỀN THỐNG CỦA PHỤ NỮ THÁI BÌNH TRONG LỊCH SỬ
1.2.1. Truyền thống của phụ nữ Thái Bình trong lao động sản xuất
Truyền thống khẩn hoang trị thủy, lập làng và lao động sản xuất nông nghiệp
cần cù sáng tạo, thâm canh cấy lúa giỏi là truyền thống quý báu của bao thế hệ
dân cư Thái Bình. Trong sự nghiệp lao động vẻ vang đó có sự đóng góp không
nhỏ của lực lượng phụ nữ Thái Bình. Nói đến phụ nữ là nói đến lực lượng chiếm
phân nửa xã hội, vì vậy truyền thống cần cù sáng tạo trong lao động, thâm canh
lúa giỏi của nhân dân Thái Bình cũng chính là của phụ nữ Thái Bình. Bởi lẽ
ngay từ đầu, trong cuộc sống gia đình và ngoài xã hội, phụ nữ là những người
đảm đang cần cù trong lao động, là lực lượng chủ yếu trong trồng trọt, chăn
nuôi, tổ chức cuộc sống gia đình, là những người trực tiếp sản xuất ra của cải vật
Trần Thị Nhung
K35 CN Lịch Sử
Khóa luận tốt nghiệp đại học
12
Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2
chất nuôi sống con người và góp phần to lớn vào việc duy trì và phát triển của
xã hội. Phụ nữ là lực lượng chính tham gia khẩn hoang lập làng, cấy lúa trồng
dâu, nuôi tằm dệt vải. Từ thời Trần, do chính sách khẩn hoang lập làng, rất nhiều
điền trang đã được lập gắn liền với tên tuổi của công chúa, hoàng hậu, vương
phi như: bà Trần Thị Dung lập điền trang thái ấp ở vùng Long Hưng, bà Mai mở
đất ở Mai Trang (An Quý), Bà Trần Thị Quý Minh với hai em là Bảo Hoa,
Quang Ánh mở trang Thương Liệt, Trung Liệt, Hạ Liệt, Phất Lộc, bà Trịnh
Uyển công chúa có công mở đất dựng các làng Sẻ (Quỳnh Châu), vương phi
Đàm Chiêu Sinh mở chợ, đào ngòi lập làng ở Đông Quang, Đông Xuân (Đông
Hưng).
Các tổ nghề là phụ nữ được nhân dân Thái Bình biết ơn thờ cúng đã thể hiện
truyền thống cần cù, vai trò chính yếu của phụ nữ trong lao động sản xuất. Ví dụ
như nghề trồng dâu nuôi tằm tổ là bà Phương Dung (Thuận Vi, Bách Thuận),
nghề chắp gai đan vó (ở Đình Phùng – Kiến Xương) có bà Nguyễn Nhất Nương,
bà tổ của nghề bánh cáy là Nguyễn Thị Tần ở Nguyên Xá, Đông La (Đông
Hưng).
Khi được sống trong chế độ mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phụ nữ Thái
Bình càng phát huy truyền thống đảm đang trong lao động sản xuất đã đạt được
nhiều thành tích to lớn trong sản xuất nông nghiệp. Trong kháng chiến chống
Pháp, chị em đã cần cù lao động tự túc lương thực và đóng góp nuôi quân, góp
phần vào thắng lợi chung. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, chị em là lực
lượng chính dựng lên “ngọn cờ 5 tấn”. Thành tích về sản xuất lúa của phụ nữ
Thái Bình là nền tảng để Thái Bình thực hiện tốt nhiệm vụ hậu phương, góp sức
cùng cả nước chiến thắng kẻ thù.
Nói tóm lại, phụ nữ Thái Bình trong lịch sử với đức tính cần cù sáng tạo luôn
có vai trò to lớn trong lao động sản xuất, được nhân dân tôn vinh và kính phục.
Không chỉ đóng vai trò chính yếu trong lao động sản xuất, phụ nữ Thái Bình với
Trần Thị Nhung
K35 CN Lịch Sử

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét