
Thứ Ba, 7 tháng 6, 2016
Quá trình hình thành, phát triển và vai trò của giai cấp tư sản việt nam đối với phong trào cách mạng thời kì 1919 1945
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
Nguyễn Thị Thơm K34A Sử
triển. Đại địa chủ Bắc Kì chiếm 17% diện tích cấy lúa Bắc Kì. Ruộng đất tập
trung mạnh nhất vào tay đại địa chủ Nam Kì chiếm tới 34% tổng diện tích cấy
lúa ở Nam Kì. Sự tập trung ruộng đất vào tay địa chủ với nhiều hình thức bóc
lột phong kiến nặng nề, đã tạo điều kiện cho thực dân Pháp thực hiện chính
sách bóc lột nhân công với giá rẻ mạt, kìm hãm sự phát triển của nền công
nghiệp dân tộc Việt Nam và là một hình thức cho địa chủ tập trung nhiều tiền
của trong tay. Địa chủ đã sử dụng số tiền này vào việc cho vay và mở rộng
thêm đồn điền, trại, ấp, phát canh cho nông dân tá điền. Đã có không ít địa
chủ dùng tiền của tích lũy được lập hội buôn, mở xưởng kinh doanh theo lối
tư bản chủ nghĩa. Từ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, xu hướng tập trung
ruộng đất vào tay địa chủ đã phát triển, lúc đó cũng đã có một số ít địa chủ tư
sản hóa. Từ sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914-1918), sự tập trung
ruộng đất vào tay địa chủ ngày càng nhiều, nhất là ở Nam Kì. Rất nhiều nông
dân bị cướp đoạt hết đất đai. Một số ít địa chủ đã mở xưởng cưa, lò gạch, máy
xay sử dụng hàng chục công nhân. Trong điều kiện mà thóc lúa địa chủ bị
cuốn vào thị trường, việc mua bán lúa gạo rất thịnh hành ở Nam Kì, nên cũng
có nhiều địa chủ bỏ vốn lập ra các công ty buôn bán lúa gạo kiếm lời, một số
còn chung vốn với tư bản ngoại quốc để kinh doanh. Trần Trinh Trạch- đại
địa chủ ở Bắc Kỳ có 17.000 mẫu tây đất và Nguyễn Tấn Sử- đại địa chủ ở Bà
Rịa đã chung cổ phần trong công ty Ngân hàng Việt Nam. Trương Văn Bền đại địa chủ có 17.000 mẫu tây đất cũng là chủ xí nghiệp xà phòng sử dụng 70
công nhân [3, tr.13]. Nhưng do chế độ bóc lột phong kiến được duy trì và phát
triển trong thời Pháp thuộc, nên những địa chủ dù đã bỏ vốn lập hãng buôn,
mở xí nghiệp, hầu hết họ vẫn không bỏ được lối bóc lột phong kiến, vẫn giữ
ruộng đất cho phát canh thu tô.
Có những tư sản Việt Nam có nguồn gốc từ một bộ phận những người
đứng ra bao thầu các bộ phận kinh doanh của Pháp. Nhỏ thì thầu cung cấp
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
Nguyễn Thị Thơm K34A Sử
gạo, củi, tiếp tế lương thực, nguyên liệu cho Pháp, lớn thì như thầu làm nhà,
làm cửa, làm đại lý phân phối hàng hóa cho Pháp. Nhưng rồi trong những
hoàn cảnh thuận lợi nào đó, họ thấy kinh doanh công nghiệp có nhiều lời hơn.
Ví dụ trong những ngành kinh doanh công nghiệp mà tư bản thực dân chưa
với tới đang đòi hỏi phát triển hay những khi tư bản ngoại quốc hoạt động sút
kém trên thị trường Việt Nam, hàng hóa trở nên khan hiếm thì những phần tử
này có thể chuyển sang mở xí nghiệp, sản xuất. Bùi Huy Tín, chủ nhà máy in
vốn là nhà thầu khoán, cũng giống Nguyễn Hữu Sở, Trần Huynh Kí chung cổ
phần trong Ngân hàng Việt Nam. Một số người còn do việc buôn bán hàng
ngoại hóa, đầu cơ tích trữ... mà phát tài sau đó lập xí nghiệp. Nói chung xu
hướng kinh doanh của số người đã dựa vào thế lực kinh tế và chính trị của đế
quốc mà trở thành giàu có thì họ lại ngày càng đi sâu vào con đường mại bản,
thầu khoán lớn, đại lý hàng ngoại quốc, chung vốn với tư bản ngoại quốc để
mở xí nghiệp và hãng buôn...
Một số quan lại cáo quan về kinh doanh công thương nghiệp với ý thức
phát triển kinh tế dân tộc. Nghiêm Xuân Quảng, nguyên Án sát Lạng Sơn
thành lập Công ty Quảng Hợp Ích buôn vải lụa, mở xưởng dệt ở Hà Nội. Một
số quan chức về hưu ở Thái Bình mở Công ty Nam Phong chuyên dệt chiếu
bán trực tiếp cho lái buôn nước ngoài. Một số đã có ý thức chung vốn lại
thành lập những công ty lớn để có thể cạnh tranh với Pháp và Hoa Kiều. Ở
Quảng Nam, có Quảng Nam hiệp thương công ty phát triển từ năm 19061907, vốn chừng 20 vạn đồng, thu mua lâm thổ sản ở nông thôn chở đi Hà
Nội, Sài Gòn, Hồng Kông bán, rồi lại mua hàng ở các nước đó về. Ở Phan
Thiết có công ty nước mắm Liên Thành đặt nhiều chi nhánh trong nước. Công
ty Phượng Lâu (Thanh Hóa) chuyên buôn tơ lụa, năm 1907 phát triển thêm
nhiều chi nhánh ở Huế, Vinh, Hà Tĩnh.....
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
Nguyễn Thị Thơm K34A Sử
Cũng có những người hoạt động yêu nước chuyển sang kinh doanh
thương nghiệp để hỗ trợ cho công tác chính trị. Ở Nghệ An, Đặng Nguyên
Cẩn, Ngô Đức Kế mở Triêu Dương thương quán. Ở Hà Tĩnh, Lê Văn Huân
mở hội buôn Mộng Hanh. Ở Hà Nội, Nguyễn Quyền mở hiệu Hồng Tân
Hưng; Hoàng Tăng Bí lập công ty Đông Thành Xương.... Những công ty này
ít vốn, cổ phần nhỏ nên quy mô kinh doanh không phát triển mạnh.
Đó là mấy hình thức chủ yếu về sự tập trung của cải của giai cấp tư sản
Việt Nam trước khi nó ra đời. Do sự thống trị kinh tế của thực dân Pháp và
phong kiến Việt Nam, những hình thức tích lũy của cải ấy đều bị hạn chế và
không có tính chất triệt để. Sự tích lũy của cải bị hạn chế khiến cho tư sản
Việt Nam không thể mở nhiều đại xí nghiệp, kinh tế của họ nhỏ bé và bị phụ
thuộc nhiều vào kinh tế của đế quốc.
1.1.1.2. Tích lũy nhân công
Do chính sách bóc lột và cướp đoạt dã man của thực dân Pháp và
phong kiến Việt Nam đã đẩy sự phá sản trong nông dân, thợ thủ công, dân
nghèo thành thị... ngày càng diễn ra trầm trọng. Chính sách bóc lột của thực
dân Pháp ở nước ta căn bản là đúng như nhận xét trong Sách giáo khoa Chính
trị kinh tế học: “Kết hợp lối cướp bóc đế quốc với hình thức bóc lột phong
kiến đối với người lao động là một đặc điểm của phương pháp bóc lột thuộc
địa đảm bảo lợi nhuận lũng đoạn cho tư bản tài chính của chính quốc. Chủ
nghĩa đế quốc vừa phát triển sản xuất hàng hóa và mở rộng quan hệ tiền tệ,
tước đoạt ruộng đất của nhân dân bản xứ, phá hoại nền tiểu sản xuất thủ công,
đồng thời lại duy trì một cách giả tạo tàn tích phong kiến và du nhập phương
pháp lao động cưỡng bức. Với sự bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa, địa tô hiện vật được thay bằng địa tô tiền, thuế hiện vật được thay bằng
thuế tiền, điều đó đưa đến kết quả làm cho quần chúng nông dân mau bị phá
sản” [15, tr.364].
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
Nguyễn Thị Thơm K34A Sử
Một trong những biện pháp đẩy nhân dân lao động Việt Nam vào tình
cảnh phá sản, bị vô sản hóa là gánh nặng thuế má. Ngay sau khi chiếm được
mấy tỉnh ở Nam Bộ, thực dân Pháp đã dùng chế độ thuế má hà khắc để tước
đoạt nông dân và các tầng lớp khác. Bộ máy thu thuế ngày càng được tăng
cường. Thuế đinh, thuế điền và các thứ thuế gián thu khác tăng lên đều đặn.
Năm 1880, xứ Nam Bộ đã nộp một số thuế là 20 triệu phơ- răng vàng. Bảy
năm sau, con số đó tăng lên 35 triệu. Hác - Măng, một trong những tên tướng
cướp thực dân đầu tiên đã khoe rằng: “Đó thật sự là một sự cai trị khôn khéo
đối với một nước mà trước khi chúng ta đến đây, chỉ việc cung cấp cho quỹ
nhà vua có 1.500.00 phơ- răng cũng đã bất lực”.[25, tr.95]. Sự cai trị khôn
khéo đó có nghĩa là sự bóc lột về thuế má của bọn thực dân ở Nam Bộ đã tăng
gấp 23 lần so với vua nhà Nguyễn. Và sự cai trị khôn khéo ấy, ai cũng biết là
đã được thực hiện bằng lưỡi lê và mũi súng. Chính sách thuế má của đế quốc
Pháp là chính sách tăng thêm các thứ thuế cũ và đặt thêm nhiều thứ thuế mới.
Chính sách đó không cần tính đến khả năng đóng góp của nhân dân, nhất là
nông dân mà chỉ nhằm mục đích rút ruột nông dân, vơ vét đến cùng cho đầy
túi của chúng. Trong rất nhiều thứ thuế phong kiến được giữ lại, thứ thuế bất
công nhất, tàn dư của thời trung cổ, mà nhân dân ta phải gánh là thuế thân- nó
làm cho nông dân vô cùng khốn quẫn. Trong tình trạng nghèo khổ, nông dân
thiếu thuế là một điều rất dễ hiểu. Nông dân phá sản, ruộng đất càng tập trung
vào tay địa chủ, thực dân.
Sau gánh nặng thuế má là gánh nặng muối, thực dân Pháp đã nắm độc
quyền bán muối từ năm 1897. Chúng đã nâng giá muối bán một cách vô lý từ
0 $50 một tạ năm 1897 lên 2$25 năm 1907. Về rượu chúng cũng nâng giá bán
rượu từ 5 hoặc 6 xu một lít lên 0$26 năm 1926. Cùng với việc tăng sản xuất
lượng rượu thì thuế rượu cùng không ngừng tăng lên. Báo Rạng đông Đông
Dương, ra ngày 8-9-1934 viết: “Chính phủ quyết định từ nay mỗi người dân
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
Nguyễn Thị Thơm K34A Sử
phải tiêu thụ 7 lít rượu. Tất cả các làng không mua đủ số rượu mà chính phủ
quy định sẽ coi như là đã làm loạn và hương lý sẽ bị trừng phạt. Số rượu phân
phối cho từng làng căn cứ theo số dân đinh, cứ mỗi người 7 lít. Số tiền bán
rượu dù hết hay không cũng phải trả đủ. Việc tiêu thụ rượu là điều bắt buộc
trước hết ở Bắc Kì và Trung Kì, rối sau tới Nam Kì và trong toàn liên bang”
[15, tr.101].
Một trong những nguồn bóc lột chủ yếu của thực dân Pháp là độc
quyền thương mại, nhất là trong vấn đề thu mua thóc gạo để xuất khẩu kiếm
lãi và đầu cơ thóc gạo để lũng đoạn thị trường thóc gạo trong nước. Nhờ cả
một loạt chính sách về thuế quan và giá cả, nền thương mại ở Đông Dương
đều nằm trong tay đế quốc Pháp. “Thương mại thuộc địa, là thương mại độc
quyền, nó ấn cho nhân dân các nước hải ngoại những sự trao đổi không
ngang giá. Nó đè lên nhân dân các nước ấy một gánh nặng ngày càng tăng
thêm do sự cách biệt ngày càng lớn giữa giá cả hàng hóa nhập khẩu và giá cả
sản phẩm xuất khẩu”.[15, tr.103]
Số người vô sản cần công ăn việc làm trong công nghiệp tăng lên
nhanh chóng. Chế độ tiền công của công nhân rất thấp. Đó là điều kiện khách
quan cho tư sản Việt Nam có nguồn nhân công rẻ mạt và làm giàu nhanh
chóng. Nhưng giai cấp tư sản Việt Nam trên con đường ra đời và phát triển
của nó, nó cũng tạo ra một lực lượng công nhân làm thuê. Công nhân ngày
một tập trung đông trong các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền của tư bản Pháp. Từ
Đại chiến thứ nhất (1914-1918) đến 1929, số công nhân đã tăng từ 100.000
đến trên 220.000 người, công nhân hầm mỏ 53.240 người, công nhân nông
nghiệp 81.188 người. Sự tích lũy tiền bạc của họ là kết quả của việc bóc lột,
cướp đoạt, bần cùng hóa, làm phá sản không ít nông dân, thợ thủ công. Khi
trở thành chủ xí nghiệp họ đã tăng cường tích lũy tư bản bằng việc ra sức bóc
lột công nhân Việt Nam: Kéo dài ngày công, trả thấp tiền công, sử dụng máy
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
Nguyễn Thị Thơm K34A Sử
móc mới, nâng cao cường độ lao động của công nhân nhưng vẫn trả thấp tiền
công, lợi dụng sức lao động rẻ mạt của phụ nữ, trẻ em và nhiều hình thức bóc
lột xảo quyệt khác. Giai cấp tư sản đã làm giàu bằng những hình thức bóc lột
đó. Nhiều chủ xí nghiệp còn đồng thời là nhà buôn, họ chẳng những trực tiếp
bóc lột công nhân, còn trực tiếp bóc lột người tiểu sản xuất và tiêu thụ nữa. Ví
dụ chủ hãng Đồng Lợi vừa có xưởng ươm tơ ở Thái Bình, vừa có xưởng cảng
tơ và có cửa hiệu buôn ở Việt Trì. Hãng đó đã cung cấp giống tằm và cho
những người trồng dâu nuôi tằm ở địa phương vay vốn lấy lãi để rồi thu mua
tơ cho họ với giá rẻ. Nhờ đó mà đầu thế kỉ XX, hãng này mới là một chủ xí
nghiệp nhỏ, nhưng khoảng năm 1920 đã có trên một 100 công nhân ươm tơ,
dệt lụa, có 30 mẫu trồng dâu, 200 mẫu trồng lúa. Trong giai cấp tư sản Việt
Nam có nhiều người kiêm địa chủ, họ vốn là địa chủ có kinh doanh công
thương nghiệp hay vốn là nhà công thương nghiệp nhưng tậu thêm ruộng đất
cho phát canh thu tô. Số tư sản này chẳng những bóc lột công nhân, còn bóc
lột nông dân bằng nhiều biện pháp như: Chế độ tô tức nặng nề của địa chủ
làm cho nông dân mất dần đất đai vào tay chúng, chế độ thuế khóa nặng nề
của đế quốc làm cho nông dân bị bần cùng hóa phải bán rẻ ruộng đất cho địa
chủ. Nông dân còn bị bóc lột nặng nề về mặt thương nghiệp, trong khi cần có
tiền nộp sưu thuế, trả nợ lãi, mua tư liệu sản xuất và tiêu dùng bắt buộc họ
phải bán nông phẩm đi. Nông dân nghèo túng đã phải bán hết số nông phẩm
để nộp thuế, tô và trả nợ lãi thì họ phải lệ thuộc chặt chẽ hơn vào địa chủ. Các
thứ thuế trực thu và gián thu đặt ra sau chiến tranh ngày một nhiều và nặng
nề. Một người dân ở Nam Kì năm 1913 nộp 5$85 thuế thân, năm 1930 tăng
lên tới 7$50. Đế quốc Pháp còn cướp đoạt ruộng đất của nông dân đem cho
chúng hoặc bán rẻ cho bọn tay sai của chúng, biến bọn này thành địa chủ. Kết
quả là sở hữu ruộng đất của giai cấp đại chủ ngày càng nhiều. Theo thống kê
năm 1930, ở 18 tỉnh Bắc Kì có tới 594.091 gia đình chỉ có dưới một mẫu

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét