
Thứ Ba, 7 tháng 6, 2016
Quá trình ra đời, hoạt động trung tâm nghiên cứu bò và đồng cỏ ba vì (1958 2011)
11
có 70 loài cho thịt, da, lông và làm cảnh. Yếu tố đặc hữu của khu hệ động vật
có xương sống ở Ba Vì ở 2 lớp Bò sát và Lưỡng thê. Đó là các loài Thằn lằn,
Ếch vạch [1, tr. 9 - 10].
Nhóm động vật quí hiếm ở Ba Vì có 66 loài, phần lớn là loài động vật
rừng nhỏ, hoặc trung bình. Nhìn chung, động vật rừng đã bị suy giảm nghiêm
trọng. Hai mối đe doạ đến động vật rừng là mất rừng và săn bắt động vật
rừng. Do địa hình vùng Ba Vì độc lập nên việc di cư của các thú rừng từ nơi
khác tới là rất hạn chế, dễ bị săn bắt. Có loài bị tiêu diệt hoàn toàn như Hươu
sao, Gấu chó…Hiện tại, nhiều loài đang có nguy cơ bị tiêu diệt như Sơn
dương, Sóc bay, Gà lôi trắng…Do vậy, cần phải kiểm soát chặt chẽ việc săn
bắt, đồng thời tạo môi trường tốt để gây dựng và phát triển số chim thú. Nên
quy hoạch các đồng cỏ để bảo vệ các loài móng guốc và tạo không gian cho
các loài chim thú di thực .
* Dân cư
Trung tâm nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì thuộc địa phận xã Tản Lĩnh
là một trong 7 xã miền núi (Xã Minh Quang, Khánh Thượng, Tản Lĩnh, Ba
Trại, Ba Vì, Yên Bài và xã Vân Hoà) thuộc khu vực vùng đệm của huyện Ba
Vì. Nơi đây là một vùng đất cổ, có bề dày truyền thống lịch sử văn hóa lâu
đời, nơi sinh ra nhiều danh nhân văn hóa và là nơi lưu giữ nhiều giá trị văn
hóa truyền thống đậm đà bản sắc ba dân tộc Dao, Kinh, Mường.
Sự phân bố dân cư và dân tộc không đồng đều trong vùng, người Kinh,
người Mường ở hầu hết 7 xã, trong lúc người Dao tập trung chủ yếu ở xã Ba
Vì. Những năm 40 - 60 của thế kỷ X, người Dao Ba Vì còn sống trên núi cao
(độ cao 600 - 800m). Thời này cư dân còn thưa thớt, sống du canh "phát - đốt
- chọc - tỉa" trên khắp núi Ba Vì và định cư ở tại Gốc Vải hay xóm "Tri Tai"
[4, tr. 6].
12
Hậu quả đã để lại hàng ngàn ha đất trống, huỷ diệt hàng trăm loài cây
gỗ quý hiếm, làm mất đi nơi cư trú của nhiều loại động vật. Những năm đầu
thế kỷ XX thảm thực vật bao phủ khắp vùng núi Ba Vì. Nhưng ngày nay rừng
chỉ còn lại ở độ cao trên 600m. Một số loài động vật quý hiếm như hổ, báo,
hươu ... nay vắng bóng, diện tích chăn thả tự nhiên cho gia súc ngày càng thu
hẹp. Trung tâm nghiên cứu Bò và đồng cỏ Ba Vì đã đưa ra biện pháp và chính
sách hợp lý để nâng cao nhận thức cho người dân như thành lập các trường
học từ mẫu giáo đến trung học cơ sở cho con em của nhân viên Trung tâm
cũng như tạo điều kiện cho con em của đồng bào dân tộc thiểu số quanh chân
núi Ba Vì được học tập. Đồng thời tạo việc làm cho người dân, phổ biến kiến
thức từ chính việc chăn nuôi bò sữa giúp người dân làm giàu.
1.1.2. Kinh tế - xã hội
Ba Vì nối liền với các tỉnh và thủ đô Hà Nội bằng các trục đường chính
như: quốc lộ 32, tỉnh lộ 89A… và các tuyến đường thủy qua sông Hồng, sông
Đà có tổng chiều dài 70 km. Với những lợi thế về giao thông đường thủy,
đường bộ, Ba Vì có điều kiện khá thuận lợi trong giao lưu kinh tế, văn hóa
với bên ngoài, tiếp thu những tiến bộ khoa học - kỹ thuật để phát triển kinh tế
với cơ cấu đa dạng nông nghiệp, dịch vụ, du lịch, công nghiệp.
Với đặc thù đồng đất chia làm ba vùng là núi, bán sơn địa và đồng bằng,
những năm qua, huyện Ba Vì còn đẩy mạnh thực hiện các dự án chăn nuôi bò
sữa, bò thịt, trồng chè, nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi gia súc, gia cầm… phù
hợp từng vùng để khai thác thế mạnh.
Huyện Ba Vì cũng là địa phương có các hoạt động xã hội rất tốt, tiêu
biểu là hoạt động xoá đói giảm nghèo. Năm 2009, huyện Ba Vì đã giải quyết
việc làm cho 10.500 lao động; xóa được 3.116 hộ nghèo, giảm 3,2% so với
đầu năm 2009 [4, tr. 21 - 22].
13
1.2. SỰ RA ĐỜI CỦA NÔNG TRƯỜNG QUỐC DOANH BA VÌ (TIỀN
THÂN CỦA TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU BÒ VÀ ĐỒNG CỎ BA VÌ)
1.2.1. Chủ trương thành lập
Trung tâm nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì là đơn vị sự nghiệp khoa
học công lập thuộc Viện Chăn nuôi, có tiền thân từ Nông trường Quốc doanh
Ba Vì, sự ra đời của Trung tâm gắn liền với những chủ trương và đường lối
của Đảng và Nhà nước ta cụ thể là chỉ thị của Ban Bí thư số 83-CT/TW, ngày
19/5/1958 về việc chuyển một số đơn vị quân đội sang sản xuất. Quân đội ta
ngoài nhiệm vụ chủ yếu là thường xuyên ra sức xây dựng quân đội tiến dần
từng bước lên chính qui và hiện đại hóa, sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ Tổ
quốc và làm hậu thuẫn cho công cuộc đấu tranh và bảo vệ hoà bình, thực hiện
thống nhất nước nhà.“Để phát huy tác dụng của quân đội trong việc tham gia
xây dựng Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, Trung ương chủ trương chuyển
một số đơn vị quân đội sang sản xuất, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, xây
dựng nông trường ở những khu vực quan trọng về kinh tế, chính trị, quân
sự...” [7, tr. 168].
Việc chuyển một số đơn vị quân đội sang sản xuất có tác dụng to lớn
trong việc mở rộng và củng cố hậu phương của ta về mọi mặt, nằm trong toàn
bộ kế hoạch nhà nước và mật thiết liên quan đến các ngành các địa phương,
nhất là các địa phương sẽ chuyển quân đội sang sản xuất [7, tr. 171]. Việc
chuyển quân đội sang sản xuất, xây dựng nông trường thực tế là công tác khai
hoang biến những vùng núi rừng, vùng đất hoang trở thành khu vực kinh tế
mới đó là một công tác rất quan trọng.
Tháng 5 năm 1958, Trung đoàn 658 thuộc Sư đoàn 338 miền Tây Nam
Bộ (bộ đội miền Nam tập kết ra miền Bắc) được lệnh về đóng quân dọc
đường 84 từ Hòa Lạc đến ngã ba đường 87, từ ngã ba theo đường 87 đến cầu
14
suối Me. Trung đoàn tiếp quản đơn vị sản xuất Đồng Vàng thuộc cục Nông
binh, thực hiện nhiệm vụ khai khẩn đất hoang sản xuất và xây dựng doanh
trại, từ đây Nông trường quân đội được thành lập. Ngày 22 tháng 12 năm
1960 Trung đoàn 658 làm lễ phong quân hàm cho cán bộ và chiến sỹ, đồng
thời cũng làm lễ hạ sao để chuyển ngành tập thể thành Nông trường Ba Vì.
Nơi đây dưới chân núi Tản Viên Sơn có dòng sông Đà thơ mộng, xưa kia
rừng thiêng nước độc đã thấm đượm bao mồ hôi, công sức, trí tuệ của các
chiến sỹ, cán bộ, công nhân viên khai phá đồi hoang, cải tạo sình lầy biến
vùng đất hoang sơ trở thành màu mỡ để sản xuất trồng trọt, chăn nuôi bò vắt
sữa, ngày nay đó là vùng du lịch trù phú sản xuất ra dòng sữa trắng “Sữa Ba
Vì” [18, tr. 11 - 12] .
1.2.2. Quá trình thành lập
Bối cảnh lịch sử:
Sau đại bại trên chiến trường Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954, Thực dân
Pháp buộc phải ngồi vào bàn đàm phán tại hội nghị Giơ-ne-vơ. Theo tinh thần
cơ bản của Hiệp định là đình chỉ chiến sự tại Đông Dương, Việt Nam tạm thời
bị chia cắt thành hai miền lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Hai miền phải thống
nhất trước tháng 7 năm 1956 bằng cuộc tổng tuyển cử “Tự do và dân chủ”
[17, tr.123 - 124].
Chúng ta đã thực hiện nghiêm chỉnh những điều khoản của Hiệp định
về tập kết, chuyển quân và chuyển giao khu vực. Trong khi đó ở miền Nam,
thực dân Pháp có nhiều hành động phá hoại Hiệp định vừa được ký kết. Dưới
sự chỉ đạo và viện trợ của Mỹ, Ngô Đình Diệm sức đàn áp phong tào cách
mạng và mưu đồ chia cắt hai miền. Tháng 7 năm 1956, Diệm tuyên bố không
tiến hành hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất hai miền, trong tình hình đất
nước tạm thời bị chia cắt, Đảng và chính phủ đã đề ra cho cách mạng mỗi
15
miền những nhiệm vụ chiến lược, phù hợp với đặc điểm tình hình và yêu cầu
của cách mạng từng miền. Ở miền Bắc, cách mạng Dân tộc dân chủ nhân dân
căn bản hoàn thành, Đảng chủ trương chuyển sang xây dựng chủ nghĩa, nhằm
xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa cách mạng của cả nước và là hậu phương
vững chắc cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của toàn dân tộc. Hai
miền đồng thời thực hiện những nhiệm vụ mục tiêu chung của cách mạng là
đánh đổ Mỹ và tay sai của chúng, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc,
hoàn thành cách mạng Dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thống nhất
đất nước, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội [31, tr. 11 - 12].
Ba Vì, hay Tản Viên sơn, cùng dòng sông Đà hùng vĩ đã tạo nên vùng
đất địa linh nhân kiệt với những tên tuổi nổi tiếng như Nguyễn Tuấn, hiện
thân của Đức thánh Tản hay được nhân dân thường gọi là Sơn Tinh, một
trong “An Nam tứ bất tử” sống mãi với thời gian với truyền thuyết Sơn Tinh Thuỷ Tinh, như Phùng Hưng - “Bố Cái Đại Vương”, như Ngô Quyền, vị vua
gắn liền với chiến công lẫy lừng đầu tiên của Việt trước quân Nam Hán xâm
lược hoặc như Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu với vần thơ lai láng ca ngợi cảnh
đẹp tự nhiên hùng vĩ của quê hương: “Sóng gợn sông Đà con cá nhảy, Mây
vờn non Tản chiếc diều bay” v.v...Trên những đồi hoang mênh mông dưới
chân núi Ba Vì, những chiến sỹ trong hàng ngũ quân đội nhân dân của quê
hương miền Nam Thành đồng Tổ quốc, những cán bộ và công nhân của miền
Bắc xã hội chủ nghĩa đã nghe theo tiếng gọi của Đảng, sát cánh bên nhau đi
xây dựng và phát triển kinh tế. Các cán bộ và chiến sỹ quân đội đã rời tay
súng trở thành thành viên của giai cấp công nhân, với truyền thống vẻ vang
của quân đội nhân dân anh hùng, những chiến sỹ công nhân ấy và những thế
hệ tiếp theo, đã khắc phục muôn vàn khó khăn gian khổ, bạt núi san đồi xây
dựng những cơ sở quốc doanh đầu tiên cho Tổ quốc.
16
Sự thành lập nông trường quân đội 658
Thực hiện chủ trương của Trung ương và Tổng Quân ủy, dưới sự chỉ
đạo của Cục Nông Binh, Năm 1956, một số cán bộ và chiến sỹ quân đội thu
dụng ở nhiều đơn vị đóng quân trên địa bàn các tỉnh miền Bắc được đưa về
đóng quân tại làng Mỹ Đức (nay thuộc xã Tản Lĩnh) để thành lập Nông
trường. Các cán bộ nòng cốt bao gồm các đồng chí Thâm, Ứng, Thích, Mua,
Trường, Thiết, Lâm hoạt động dưới sự chỉ huy của đồng chí Bế Văn Sắt, tiểu
đoàn trưởng. Vào thời điểm này, chưa hình thành tổ chức của một Nông
trường quốc doanh và chưa có phương tiện sản xuất gì.
Đến đầu năm 1957, đơn vị chuyển về đóng tại xóm Đồng Vàng, xã Yên
Bài. Số lượng cán bộ chiến sỹ được bổ sung và tăng cường nhiều hơn, hoạt
động dưới sự chỉ huy của đồng chí Bế Văn Sắt, tiểu đoàn trưởng và là giám
đốc đơn vị sản xuất. Bộ máy tổ chức nhân sự dần dần được hình thành với
Ban Giám đốc gồm ba đồng chí: Bế Văn Sắt, giám đốc; Nguyễn Đình Thiết,
phó giám đốc; và Phan Hường, chính trị viên. Đơn vị có con dấu và tài khoản
riêng tại Ngân hàng Sơn Tây. Đường giao thông và các cơ sở hạ tầng còn
trong tình trạng thiếu thốn và hết sức khó khăn. Từ nơi đóng quân tới thị xã
Sơn Tây, thủ phủ của tỉnh Sơn Tây thời Pháp thuộc, cách xa chỉ khoảng 10 12 km mà đơn vị phải cử một đồng chí là Vương Kim Mộc hàng ngày cưỡi
ngựa từ đơn vị ra Sơn Tây lấy công văn, giấy tờ và thư báo.
Vào giai đoạn chuyển đổi nhiệm vụ và chức năng này, tình hình tư
tưởng của cán bộ chiến sỹ chưa ổn định, đa phần còn hoang mang, dao động;
nói chung đều mong muốn được phục viên hoặc chuyển sang làm ở các ngành
công, thương nghiệp. Chính vì vậy có tình trạng lãn công, chây lười công tác.
Nhiều đồng chí đã viết đơn thư gửi về Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân
Việt Nam để thắc mắc [18, tr. 12].

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét