
Thứ Năm, 9 tháng 6, 2016
Phật giáo nhật bản thời kỳ kamakura (1192 1333)
Khoá luận tốt nghiệp Đại học
Trường ĐHSP Hà Nội 2
làm cho một số yếu tố của Phật giáo ở Nhật Bản đã có những khác biệt khá
căn bản với Phật giáo, Ấn Độ hay với Phật giáo Trung Hoa. Những biến đổi
đó lúc đầu được tạo nên bởi nền tảng kinh tế - xã hội cũng như những yêu cầu
của cư dân Nhật Bản, của văn hóa Nhật Bản nhưng đến lượt nó, nhiều khi lại
trở thành những định hướng cho sự phát triển của văn hóa Nhật Bản về sau.
Vì lẽ ấy, mặc dù tồn tại trong những điều kiện của một xã hội hiện đại nhưng
văn hóa Nhật Bản vẫn giữ được những yếu tố như nhân ái, mềm mại của đạo
Phật, cứng nhắc đến tàn nhẫn của võ sĩ đạo, thực dụng như Khổng giáo và
mộng mơ siêu thoát của thiền, tư tưởng trọng lợi ích vật chất và yêu cái đẹp
da diết, một tư duy khoan hòa nhưng lại chứa đầy tính duy lý v.v...
Nghiên cứu quá trình du nhập của Phật giáo vào Nhật Bản có thể rút ra
một số đặc điểm chủ yếu như sau:
Một là: So với các nước trong khu vực, thời điểm du nhập Phật giáo
vào Nhật Bản có muộn hơn. Theo các nguồn sử liệu còn lưu lại, khoảng thế
kỷ VI Phật giáo đã từng có mặt ở Nhật Bản. Việc du nhập Phật giáo vào Nhật
Bản chủ yếu từ hai con đường: Trung Quốc và Triều Tiên. Phật giáo có mặt ở
Triều Tiên sớm hơn ở Nhật Bản chừng 150 năm. Sách Phù Tang lược ký cho
biết: "Tháng 2 năm thứ 16 sau khi Kế Thể Thiên Hoàng tức vị (năm thứ 3 niên
hiệu Phổ Tông Vũ Đế nhà Lương, năm 522) một người Hán là Tư Mã Đạt đến
Nhật Bản làm nhà cỏ ở bản Điền Nguyên, quận Cao Thị nước Đại hòa, bày
tượng phật lễ bái" . Cũng theo nguồn sử liệu trên thì vào tháng 10 năm 522
(năm thứ 13 đời Khâm Minh Thiên Hoàng) có Thánh Minh Vương ở nước
Bách Tế trên bán đảo Triều Tiên đã sai Cơ Thị Đạt dẫn đầu một đoàn người
đến tặng một pho tượng Phật Thích Ca bằng đồng và có cờ phướn, kinh luân.
Giới nghiên cứu ở Nhật Bản quen gọi hai con đường du nhập Phật giáo: Tư
truyền và Công truyền để phân biệt Phật giáo được dân gian truyền vào và
chính phủ truyền vào.
Nguyễn Thị Minh
11
K34B – CN Lịch sử
Khoá luận tốt nghiệp Đại học
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Qua nghiên cứu thời điểm và con đường du nhập Phật giáo vào Nhật
Bản có thể thấy rằng, Phật giáo được du nhập muộn hơn một số nước trong
khu vực, hơn nữa Phật giáo trên con đường truyền bá đã từng bị khúc xạ qua
nhiều nước trung gian vì vậy nó không còn nguyên vẹn như Phật giáo chính
gốc. Điều căn bản hơn là ở chỗ Phật giáo ở Nhật Bản bị chi phối mạnh bởi
các yếu tố tín ngưỡng bản địa vốn đã có truyền thống ở Nhật Bản đó là tục
thờ Kami (biểu tượng thần linh của Shinto). Điều này cũng cho thấy trong
lịch sử tồn tại của Phật giáo ở Nhật Bản luôn có sự giằng co thậm chí là xung
đột trong đời sống tín ngưỡng của cá nhân và trên bình diện xã hội giữa một
bên là Phật và bên kia là Thần. Nếu so sánh với Phật giáo ở Việt Nam ta thấy
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam sớm hơn vào Nhật Bản khoảng 6 thế
kỷ. Ở Việt Nam ngoài con đường du nhập Phật giáo trực tiếp từ phía các cao
tăng Ấn Độ còn có các cao tăng của Trung Hoa. Tuy nhiên các cao tăng của
Trung Hoa khi truyền Phật giáo vào Việt Nam thì tính chất Phật giáo Ấn Độ
cũng rõ rệt hơn. Mặt khác, Phật giáo vào Việt Nam chủ yếu bằng con đường
dân gian nên sự xung đột giữa nó và tín ngưỡng bản địa ít quyết liệt. Có thể
nói, nó được du nhập một cách tương đối hòa bình.
Thứ hai: Phật giáo du nhập vào Nhật Bản trong bối cảnh người Nhật đã
có một truyền thống tín ngưỡng khá vững chắc: tín ngưỡng về Thần (Kami).
Kami là đối tượng của sự thờ cúng trong Shinto đã tồn tại từ thời cổ đại. "Đây
là những thực thể mờ ảo, tồn tại không hình dạng, thiếu hẳn tính người và
giống với sự biểu hiện quyền lực lạnh lùng. Tất cả được coi như là cao hơn ở
bên trên con người bằng kiến thức và quyền lực, giữa những quyền lực đời sống
và nằm ngoài sự kiểm soát của con người" [2; 183]. Kami có nhiều loại
nhưng tựu trung có 4 đặc điểm chung:
- Kami không có hình dạng riêng nhưng có thể được mời gọi đến với
những hình thức mời thích hợp.
Nguyễn Thị Minh
12
K34B – CN Lịch sử
Khoá luận tốt nghiệp Đại học
Trường ĐHSP Hà Nội 2
- Kami là thực thể trừu tượng, có thể mang phúc hay chuốc họa cho con
người tùy thuộc vào thái độ đối xử của con người đối với Kami.
- Kami có thế giới riêng nhưng vẫn có thể viếng thăm thế giới loài
người và sử dụng vào những mục đích của họ.
- Kami là thế lực ban phát cho con người những lợi ích vật chất mà
không đại diện cho một thứ chân lý tối hậu.
Nhìn chung những đặc trưng của Kami về thực chất, Shinto có những
khác biệt căn bản với Phật đạo. Điểm căn bản nhất là ở chỗ, Kami là trừu
tượng trong khi Phật là cụ thể. Tôn sùng, thờ cúng Kami sẽ được đền đáp
trong khi Phật chủ trương chính con người tự chịu trách nhiệm về kết quả của
hành động của bản thân mà không trông chờ bất kỳ một sự ban phát nào nhất
là trong quan niệm của Phật giáo nguyên thủy. Kami là thế lực ban phát trong
khi Phật đại diện cho chân lý tối hậu, Shinto không đủ và được một hệ thống
các giá trị đạo đức được xem là chân lý. Vì những lẽ trên nên ở buổi đầu du
nhập, Shinto và Phật giáo luôn chứng tỏ những sự xung khắc và sự xung khắc
đó kéo dài cho đến tận ngày nay. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, mặc dù
xung khắc nhưng Phật giáo đã góp phần bổ sung, bù đắp cho những lỗ hổng
về nhận thức mà Shinto không thể có, do đó xuất hiện xu hướng hỗn dung,
vay mượn lẫn nhau giữa Thần và Phật là một thực tế trong đời sống tín
ngưỡng của người Nhật Bản. Bách khoa toàn thư Nhật Bản khẳng định: "Đạo
Phật đã cung cấp cho người Nhật toàn bộ khái niệm về đạo đức... Đạo Phật đã
đưa đến cho văn hóa Nhật Bản những từ về lòng thương xót, anh minh, lòng từ
bi, lòng nhân ái..." [2; 191]. So sánh vấn đề này với bối cảnh Phật giáo du
nhập vào Việt Nam, ta thấy cả hai cuộc du nhập đó có những tương đồng
nhưng cũng có nhiều dị biệt. Sự tương đồng thể hiện ở chỗ, Phật giáo là một
tôn giáo ngoại lai nên tất yếu phải có những phản ứng từ phía bản địa. Thêm
nữa cả Việt Nam và Nhật Bản đều là những quốc gia nông nghiệp và tín
Nguyễn Thị Minh
13
K34B – CN Lịch sử
Khoá luận tốt nghiệp Đại học
Trường ĐHSP Hà Nội 2
ngưỡng bản địa đều có những khiếm khuyết cần phải được bổ sung. Ngoài
những tương đồng trên những dị biệt sau đây là căn bản:
- Phật giáo du nhập vào Việt Nam trong bối cảnh đất nước bị đô hộ còn
ở Nhật Bản thì nội chiến lại liên tục.
- Ở Việt Nam, Phật giáo vào sớm hơn nhưng phải 1000 năm sau kể từ
thời Đinh - Lê nó mới được phát huy tác dụng, còn ở Nhật Bản tuy được du
nhập muộn hơn nhưng nó lại có quá trình phát triển liên tục.
- Các tôn giáo ngoại nhập muốn bắt rễ vào một khu vực nào đó không
thể không dựa vào tôn giáo truyền thống nhưng vì trong giai đoạn đó, Shinto
đã là một tôn giáo phổ biến của người dân lại có nhiều dị biệt với Phật giáo
nên sự du nhập diễn ra khó khăn hơn.
Chính những dị biệt đó làm cho sự du nhập của Phật giáo vào Nhật
Bản có phần khó khăn và sự đụng độ của nó với Shinto thêm phần quyết liệt.
Thứ ba: Trong bối cảnh về văn hóa, tín ngưỡng của Nhật Bản, Phật
giáo muốn bắt rễ phải tự biến đổi mà nhiều biến đổi đã trở nên khác lạ so với
Phật giáo chính gốc.
Trước hết, muốn bắt rễ, Phật giáo không thể du nhập bằng hệ thống lý
luận trừu tượng mà phải là dưới hình thức nào đó của ma thuật, về những lời
hứa sẽ bảo vệ toàn bộ xứ sở, về sự sẵn sàng cứu giúp của các Bồ tát. Do đó
một điều tự nhiên là trong hai thế kỷ tôn giáo mới này được hiểu một cách
đơn thuần như một phương tiện có hiệu quả giúp tạo ra những ân huệ trần tục
mà chúng sinh luôn luôn tìm kiếm, mong đợi từ những vị thần trong Shinto.
Cũng vì tính chất đó mà triều đình nhanh chóng chấp nhận Phật giáo vì nó
mang lại mùa màng tốt tươi, vạn vật sinh sôi và khuyến khích cho sự giàu có
của đất nước. Để đi vào lòng người thuộc mọi đối tượng, Phật giáo ở Nhật
Bản luôn chủ trương hai khuynh hướng: Khuynh hướng thứ nhất, đối với dân
chúng chiếm số đông, nó thường xuyên cung cấp những dịch vụ thiết thân
Nguyễn Thị Minh
14
K34B – CN Lịch sử
Khoá luận tốt nghiệp Đại học
Trường ĐHSP Hà Nội 2
như chữa bệnh hay là tìm ra đôi lứa hợp nhau... hoặc chăm sóc người chết, vỗ
về người sống bằng các nghi lễ cầu hồn nhằm tạo sự an tâm về sự quấy rối
của linh hồn khi có người chết. Khuynh hướng thứ hai, phục vụ những người
coi thế giới này là ảo và chất đầy sự đau khổ. Với loại người này Phật giáo
cung cấp cho họ phương tiện để làm thay đổi nhận thức - tập Thiền. Có thể
nói, vì tập tục thờ thần cũ, cho nên Phật giáo Nhật Bản thời kỳ đầu đặc biệt
coi trọng việc cầu mong công đức. Các sử gia gọi đây là: Phật giáo cầu mong;
họ không tha thiết tìm hiểu kinh nghĩa mà chỉ mong mượn chú nguyện để kéo
dài tuổi thọ, trừ tai, chữa bệnh, cầu mưa, giữ nước. Họ vẫn lễ Phật với tâm lý
cầu thần, cầu xin đời sống hiện thực được bình yên như ý.
Qua đây có thể thấy rằng Phật giáo ở Nhật Bản rất đậm tính thực dụng
và có màu sắc nhập thế khá gần gũi với tính chất của Phật giáo ở Việt Nam.
Thứ tư: Phật giáo vào Nhật Bản trong điều kiện xã hội đang ở giai đoạn
xã hội thị tộc, mỗi thị tộc chỉ thờ thần của thị tộc mình. Bởi vậy đối với thờ
cúng của Shinto hết sức đa dạng. Có những thần ngự trong các đối tượng tự
nhiên như cây cối, núi non, mặt trời, nhưng cũng có những vị thần phụ trách
một số nghề thủ công chuyên ban phát năng lực cho những ngư dân hay
những thợ săn... có những vị thần còn sống như những chuyên gia về tôn giáo
hay những người bằng sự rèn luyện khổ hạnh đã đạt đến khả năng hòa nhập
và hóa thân thành các Kami. Có những vị thần bảo hộ cho cá nhân, gia đình,
dòng tộc nhưng cũng có những Kami có khả năng sáng tạo ra các hòn đảo hay
bảo hộ cho Hoàng gia. Lại nữa. có những Kami khi được thờ cúng có khả
năng thay đổi tính chất, từ thần phá phách trở thành thần có ích sẵn sàng giúp
đỡ nhân loại...
Rõ ràng, sự đa dạng của các Kami là sự biểu hiện của lối tư duy phong
phú khá phổ biến của người phương Đông. Cố nhiên khi đối tượng thờ cúng
đa dạng, hỗn tạp thì niềm tin cũng đa dạng và hỗn tạp. Tình hình này là sự
Nguyễn Thị Minh
15
K34B – CN Lịch sử
Khoá luận tốt nghiệp Đại học
Trường ĐHSP Hà Nội 2
phản ánh thực tế phân biệt giữa các thị tộc trên quần đảo Nhật Bản, nó không tạo
cơ sở tinh thần cho sự thống nhất của quốc gia. Trong bối cảnh đó, Phật giáo du
nhập nhanh chóng được Hoàng gia và người dân chấp nhận. Sự kiện vĩ đại này
đã tạo ra cơ sở cho sự thống nhất về đức tin và từ sự thống nhất về đức tin đã
tạo điều kiện cho sự thống nhất về quốc gia. Vì lẽ ấy, các Tenno của Nhật
Bản không chỉ là lãnh tụ về chính trị mà còn là lãnh tụ về tôn giáo. Nơi ở của
Tenno cũng là nơi ở của thần linh và chỉ sau năm 1945 khi nước Nhật bại trận
thì Tenno mới trở lại tư cách như con người.
Đề cập đến một vài đặc điểm của Phật giáo ở Nhật Bản buổi đầu du
nhập như trên, chúng tôi muốn so sánh với quá trình du nhập của Phật giáo
vào Việt Nam. Điều dễ nhận thấy là, cũng xuất phát từ Phật giáo, song khi
vào Nhật Bản, vào Việt Nam... thì đã có những khác biệt. Nếu như ở Nhật
Bản, Phật giáo được tiếp nhận để phục vụ cho lợi ích thực dụng của người
dân, phục vụ cho sự thống nhất quốc gia và được chấp nhận từ phía thế lực
cầm quyền thì ở Việt Nam Phật giáo chủ yếu được tiếp nhận bằng con đường
dân gian. Vì lẽ ấy, tính nhập thế của Phật giáo ở Nhật Bản rõ hơn tính nhập
thế của Phật giáo ở Việt Nam. Người Nhật Bản tiếp nhận Phật giáo không chỉ
nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần mà còn tìm được sự thỏa mãn những nhu
cầu thực tế như chữa bệnh, học hành hay chí ít cũng là tìm được sự phù hợp
cho hạnh phúc đôi lứa...
Phật giáo ở Nhật Bản được tiếp nhận trên nền tảng Shinto - một tín
ngưỡng không chỉ có tính thực dụng cho người dân mà còn có tính thực dụng
cho giới cầm quyền nên có sự hỗn dung Thần - Phật, trong đó yếu tố trội là
Thần.
Người Việt Nam chấp nhận Phật giáo trên nền tảng tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên (tất nhiên có cả thờ thần tự nhiên), do đó tính quyền lực ở phương
diện chính trị có phần ít đậm đặc. Vì vậy, người Nhật cũng trọng chữ "trung"
Nguyễn Thị Minh
16
K34B – CN Lịch sử

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét