
Thứ Sáu, 8 tháng 4, 2016
Nghiên cứu chế tạo vật liệu cao su blend trên cơ sở cao su tái sinh và polyetylen tỷ trọng thấp
Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
- Kích thước hạt
- Loại bám dính pha.
Những yếu tố này bị chi phối bởi điều kiện chuẩn bị và gia công của
vật liệu [6].
Trong thực tế để tăng độ tương hợp cũng như khả năng trộn hợp của
các polyme người ta dùng các chất làm tăng khả năng tương hợp như các
copolyme, chất hoạt tính bề mặt bên cạnh việc chọn chế độ chuẩn bị và gia
công thích hợp cho từng loại tổ hợp thông qua việc khảo sát tính lưu biến của
tổ hợp vật liệu.
Từ kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng, các polyme có bản chất hóa học
giống nhau sẽ dễ phối hợp với nhau, những polyme khác nhau về cấu tạo hóa
học hoặc độ phân cực sẽ khó trộn hợp với nhau. Trong những trường hợp này
ta phải dùng các chất làm chất tương hợp (trợ tương hợp).
Trong tất cả các trường hợp, thời gian trộn, nhiệt độ, và tốc độ trộn có ảnh
hưởng quyết định tới cấu trúc cũng như tính chất của vật liệu. Vì thế, với mỗi hệ
cụ thể, căn cứ vào tính chất của các polyme ban đầu cũng như đặc tính lưu biến
của tổ hợp để chọn chế độ chuẩn bị (tạo blend) và gia công thích hợp.
1.1.4. Các phương pháp xác định sự tương hợp của polyme blend [3, 14]
- Hòa tan các polyme trong cùng một dung môi: nếu xảy ra sự tách pha
thì các polyme không tương hợp với nhau.
- Tạo màng mỏng từ dung dịch loãng của hỗn hợp polyme: nếu màng
thu được mờ và dễ vỡ vụn thì các polyme không tương hợp.
- Quan sát bề mặt và hình dạng bên ngoài của sản phẩm polyme blend
thu được ở trạng thái nóng chảy: nếu các tấm mỏng thu được bị mờ thì các
polyme không tương hợp. Nếu tấm mỏng thu được trong suốt thì các polyme
có thể tương hợp.
- Phương pháp cơ nhiệt động
Đỗ Thị Yến
6
K35C-Hóa
Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
- Dựa vào nhiệt độ thủy tinh hóa: nếu polyme blend thu được giữ
nguyên nhiệt độ nóng chảy của các polyme thành phần thì các polyme này
không tương hợp. Nếu polyme blend thu được có nhiệt độ nóng chảy chuyển
dịch so với các nhiệt độ nóng chảy của các polyme ban đầu thì sự tương hợp
không hoàn toàn. Nếu polyme blend chỉ có một nhiệt độ nóng chảy nhất định
là sự tương hợp hoàn toàn.
- Phương pháp chụp ảnh hiển vi điện tử quét (SEM): chụp ảnh hiển vi
của bề mặt cắt hoặc gẫy của polyme blend có thể quan sát thấy tính đồng nhất
hoặc không đồng nhất, đồng thể hay dị thể của polyme blend.
- Phương pháp tán xạ tia X góc hẹp.
- Phương pháp đo độ nhớt của dung dịch polyme blend: khi trộn lẫn hai
polyme cùng hòa tan tốt trong một dung môi, nếu hai polyme tương hợp thì
độ nhớt của hỗn hợp tăng và ngược lại.
1.1.5. Những biện pháp tăng cường tính tương hợp của các polyme
1.1.5.1. Đưa thêm vào hệ các chất tương hợp
Sử dụng các chất tương hợp là các copolyme nhánh hoặc khối
Để làm chất tương hợp, các copolyme khối hoặc nhánh phải có một
khối hoặc một nhánh có khả năng tương hợp tốt với một polyme, và nhánh
hoặc khối kia phải có khả năng tương hợp tốt với polyme còn lại trong hệ.
Các copolyme ở đây thường có hai khối, mỗi khối bao gồm monome của mỗi
polyme thành phần. Như vậy, khối có cùng monome với polyme thành phần
nào sẽ có cùng bản chất và cấu tạo hóa học tương tự như polyme đó, do vậy
chúng có khả năng trộn hợp, liên kết chặt chẽ với nhau. Kết quả là hai polyme
thành phần của hệ sẽ được liên kết với nhau, trong đó copolyme khối đóng vai
trò như một chất kết dính [8].
Sử dụng chất tương hợp là các polyme có khả năng phản ứng với
các polyme thành phần của hệ
Đỗ Thị Yến
7
K35C-Hóa
Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
Đưa một polyme C có khả năng phản ứng vào polyme blend A/B, trong
đó polyme này có khả năng tương hợp với một trong hai polyme thành phần
của hệ còn polyme không tương hợp với polyme C thì phải chứa nhóm chức
có khả năng phản ứng với polyme C. Nếu cả hai polyme A và B đều không
chứa nhóm chức có khả năng phản ứng với polyme C thì có thể đưa thêm vào
một polyme D nữa, với điều kiện polyme C và D có khả năng phản ứng được
với nhau và mỗi polyme này có khả năng tương hợp với một polyme chính
của hệ (polyme A hoặc B).
Chất tương hợp là các tác nhân có hai nhóm chức
Nhờ có hai nhóm chức nên các hợp chất này có thể tương tác với các
nhóm chức trên mạch phân tử của hai polyme thành phần để tạo thành
copolyme khối.
1.1.5.2. Đưa vào hệ các peroxit
Dưới tác dụng của nhiệt, peoxit bị phân hủy tạo gốc tương tác với các
polyme thành phần tạo copolyme nhánh của các polyme thành phần ban đầu.
1.1.5.3. Đưa vào hỗn hợp của peoxit và hợp chất đa chức
Phương pháp này kết hợp cả vai trò của peoxit và hợp chất đa chức
nên có khả năng tăng cường tốt hơn cho sự tương hợp của các polyme. Trong
đó, peoxit hoạt hóa phản ứng giữa một polyme và ít nhất với một nhóm chức
của hợp chất đa chức. Sau đó sẽ xảy ra phản ứng giữa nhóm chức còn lại với
polyme thứ hai và tạo thành copolyme ghép.
1.1.5.4. Chế tạo các blend trên cơ sở các polyme có khả năng tham gia phản
ứng trao đổi
Khi hai hay nhiều polyme trùng ngưng được trộn hợp với nhau ở trạng
thái nóng chảy, nhiều phản ứng trao đổi có thể xảy ra. Các phản ứng trao đổi
dẫn tới việc tạo thành các copolyme là chất tương hợp của các polyme trong
blend.
Đỗ Thị Yến
8
K35C-Hóa
Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
1.1.5.5. Đưa vào hệ các chất hoạt động bề mặt
Các chất hoạt động bề mặt sẽ tập trung trên bề mặt phân pha, có vai trò
như chiếc cầu nối giữa hai pha, làm giảm sức căng bề mặt phân pha và do đó
tạo điều kiện cho các pha phân tán tốt vào nhau trong quá trình chế tạo blend.
Tuy nhiên cần lưu ý, chất hoạt động bề mặt thường có khối lượng phân tử
thấp do vậy hàm lượng sử dụng tối ưu thường không cao. Qua các kết quả
nghiên cứu cho thấy rằng, khi sử dụng các chất hoạt động bề mặt có khối
lượng phân tử thấp (dưới đơn vị nghìn) hàm lượng tối ưu chỉ khoảng 1% so
với cấu tử có hàm lượng thấp.
1.1.5.6. Đưa vào hệ các chất độn hoạt tính
Một số chất độn hoạt tính có tác dụng nâng cao khả năng tương hợp
của các polyme. Trong những trường hợp này, chất độn được phân bố một
cách chọn lọc tại bề mặt phân cách pha giữa hai pha polyme, có tác dụng như
các chất tương hợp ở trên. Đối với các hệ này, mức độ khả năng tương hợp
của các cấu tử phụ thuộc vào tương tác giữa chất độn với các polyme thành
phần. Nếu tương tác càng mạnh, mức độ tăng tương hợp càng cao.
1.1.5.7.Sử dụng phương pháp cơ nhiệt
Khi gia công trong điều kiện ứng suất và nhiệt độ cao có thể xảy ra quá
trình phân hủy của polyme, trong đó có phản ứng đứt mạch tạo thành gốc tự
do. Các gốc tự do này cũng có thể được tạo thành dưới tác dụng của nhiệt
hoặc của đồng thời của hai yếu tố cơ và nhiệt. Phản ứng tạo thành gốc tự do
có thể xảy ra cả trong điều kiện có và không có mặt oxi. Sau đó gốc tự do của
các phân tử khác nhau kết hợp lại với nhau hoặc tác dụng với nối đôi có trong
các phân tử polyme trong hệ. Khi gốc tự do của hai mạch polyme khác loại
kết hợp với nhau sẽ tạo thành copolyme khối hay ghép tại bề mặt phân cách
pha. Chính các liên kết này có tác dụng nâng cao khả năng tương hợp của hai
polyme thành phần.
Đỗ Thị Yến
9
K35C-Hóa
Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
1.1.5.8. Sử dụng phương pháp lưu hóa động
Đây là phương pháp thường được sử dụng để tăng khả năng tương hợp
của các polyme trong blend có cao su với nhựa nhiệt dẻo. Khi lượng cao su
lớn, đồng thời độ nhớt của hai polyme tương đương nhau ở nhiệt độ gia công,
nếu không được khâu mạch, thì blend tạo thành có cấu trúc gồm pha nhựa
phân tán trong pha liên tục cao su. Trong điều kiện có tác nhân khâu mạch, độ
nhớt của pha cao su tăng lên, và đến một mức độ nào đó sẽ có sự chuyển pha
xảy ra. Kết quả là pha nhựa nhiệt dẻo tái hợp lại tạo thành pha liên tục có cấu
trúc mỏng, bao quanh các vùng thuộc pha phân tán cao su. Trong trường hợp
này, pha nhựa nhiệt dẻo đóng vai trò như lớp chất kết dính các vùng cao su đã
khâu mạch với nhau. Hệ vật liệu được lưu hóa động tạo thành có tính chất
giữa nhựa nhiệt dẻo và cao su.
1.1.6. Các phương pháp chế tạo vật liệu polyme blend
Điều quan trọng đầu tiên trong công nghệ chế tạo vật liệu polyme là
chọn ra những polyme phối hợp được với nhau và đưa lại hiệu quả cao.
Những căn cứ để lựa chọn:
- Yêu cầu kĩ thuật của vật liệu cần có
- Bản chất và cấu tạo hóa học của polyme ban đầu
- Giá thành.
Để tạo vật liệu polyme, người ta có thể tiến hành trực tiếp trong các
máy trộn các polyme còn ở dạng huyền phù hoặc nhũ tương. Đối với các
polyme thông thường người ta phối trộn trong các máy ép đùn một trục hoặc
hai trục.
1.1.6.1. Chế tạo polyme blend từ các dung dịch polyme blend
Yêu cầu của phương pháp này là các polyme thành phần phải hòa tan
tốt với nhau trong cùng một dung môi hoặc trong các dung môi có khả năng
trộn lẫn với nhau. Có thể kèm theo quá trình khuấy ở nhiệt độ cao và gia nhiệt
Đỗ Thị Yến
10
K35C-Hóa
Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
trong thời gian dài để tạo điều kiện cho các polyme phân tán vào nhau tốt
hơn. Sau khi thu được màng polyme blend cần phải đuổi hết dung môi bằng
các phương pháp khác nhau (sấy ở nhiệt độ thấp và áp suất thấp) tránh để
màng bị rạn nứt, bị phân hủy nhiệt hay phân hủy oxi hóa nhiệt [3].
1.1.6.2. Chế tạo polyme blend từ hỗn hợp các latex polyme
Phần lớn các sản phẩm polyme trùng hợp trong nhũ tương tồn tại dưới
dạng latex có môi trường phân tán là nước. Quá trình trộn các latex dễ dàng
và polyme thu được có hạt phân tán đều vào nhau.
Nhược điểm của phương pháp này: khó tách hết các chất nhũ hóa, các
phụ gia như nước ra khỏi polyme blend. Vì vậy các tính chất cơ, lý, hóa,
nhiệt, điện của polyme blend giảm đi.
1.1.6.3. Chế tạo polyme blend ở trạng thái nóng chảy
Phương pháp này kết hợp các yếu tố cơ - nhiệt, cơ - hóa và tác động
cưỡng bức lên các polyme thành phần, phụ gia,... Trên máy gia công nhựa
dẻo để trộn hợp chúng với nhau (máy ép đùn, máy ép phun).
1.1.7. Ưu điểm của polyme blend
- Vật liệu polyme blend ra đời đã lấp được khoảng trống về tính chất
công nghệ và giá thành giữa các loại cao su và polyme thành phần. Qua đó
người ta có thể tối ưu hóa về mặt giá thành và tính chất của vật liệu sử dụng.
- Vật liệu polyme blend tạo khả năng phối hợp tính chất mà những loại
vật liệu khác khó có thể đạt được từ các tính chất quý của các vật liệu thành
phần. Do vậy, đáp ứng những yêu cầu cao của hầu hết các lĩnh vực kỹ thuật.
- Quá trình nghiên cứu chế tạo sản phẩm trên cơ sở cao su blend (hoặc
polyme blend nói chung) thường nhanh hơn nhiều so với nghiên cứu chế tạo
sản phẩm từ vật liệu mới khác vì người ta có thể sử dụng những vật liệu với
những tính chất đã biết và công nghệ sẵn có [3, 14].
Đỗ Thị Yến
11
K35C-Hóa

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét