
Thứ Bảy, 16 tháng 4, 2016
Nghiên cứu tổng hợp chất màu kẽm ferit từ bùn đỏ
Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội 2
Khóa Luận Tốt Nghiệp
Bảng 1.1 Màu của các chất có một dải hấp thụ ở phần phổ trông thấy
khi được chiếu bằng ánh sáng trắng.
Bước sóng của
vạch hấp thụ (nm)
Năng lượng
Màu của ánh
(kJ/mol)
299
400 – 435
sáng bị hấp thụ
Màu của chất
Tia tử ngoại
Không màu
299 – 274
Tím
Lục – Vàng
435 – 480
274 – 249
Lam
Vàng
480 – 490
249 – 244
Lam – Lục nhạt
Cam
490 – 500
244 – 238
Lục – Lam nhạt
Đỏ
500 – 560
238 – 214
Lục
Đỏ tía
560 – 580
214 – 206
Lục - Vàng
Tím
580 – 595
206 – 200
Vàng
Lam
595 – 605
200 – 198
Cam
Lam – Lục nhạt
605 – 750
198 – 149
Đỏ
Lục – Lam nhạt
>750
φ: thì xảy ra quá trình oxi hóa và kim loại bị ăn mòn.
Như vậy, theo điều kiện nhiệt động, kim loại bị ăn mòn khi thế của kim
loại đó nhỏ hơn so với thế của chất đóng vai trò oxi hóa, lúc này, kim loại bị
ăn mòn tham gia phản ứng anot và tác nhân oxi hóa tham gia phản ứng catot.
Khi ăn mòn kim loại có hydro tham gia thì sự ăn mòn đó được gọi là sự
khử phân cực hidro, còn khi có oxy là sự khử phân cực oxi.
1.3.4. Bảo vệ kim loại bằng phương pháp sơn phủ
Để hạn chế sự phá hủy kim loại, nghĩa là giảm tốc độ ăn mòn kim loại do
môi trường gây ra đến mức nhỏ nhất có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau.
Ngăn cách kim loại tiếp xúc với môi trường bằng các lớp phủ là một
biện pháp có hiệu quả bảo vệ chống ăn mòn kim loại. Một số lớp phủ thường
được sử dụng như:
- Phủ kim loại lên bề mặt, thường dùng phương pháp:
Phủ bằng phương pháp nhúng vào kim loại nóng chảy: Sử dụng các
kim loại có nhiệt độ nóng chảy thấp Zn (419o), Sn (232o), Pb (327o), Al (658o)
phủ lên các vật liệu có nhiệt độ nóng chảy cao.
- Mạ điện: Để bảo vệ kim loại (ví dụ thép) khỏi sự ăn mòn của môi trường
gây ra người ta thường mạ lên thép các kim loại: Zn, Cd, Ni, Cu, Cr, Sn.
- Lớp phủ vô cơ: Có nhiều loại lớp phủ vô cơ nhưng loại thường được
sử dụng và phổ biến nhất là lớp photphat hóa.
Tạo lớp muối photphat các kim loại Mn, Fe hoặc Zn lên trên nền thép
của các loại chi tiết hoặc các kết cấu: vỏ ô tô, tàu hoả… Màng này có tính bảo
Lê Thị Khánh Ly
8
Lớp: K33B – Hóa Học
Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội 2
Khóa Luận Tốt Nghiệp
vệ chống ăn mòn kém và không dùng nó làm lớp bảo vệ, song nó kết hợp với
các lớp phủ như sơn sẽ tạo ra lớp bảo vệ có chất lượng cao.
Trong đề tài này thì lớp phủ vô cơ tập trung nghiên cứu khả năng chống
ăn mòn của lớp phủ sử dụng chất màu kẽm ferit (ZnFe2O4).
1.3.5. Cấu trúc spinel và khả năng tạo lớp phủ của kẽm ferit
Kẽm ferit có công thức là ZnFe2O4 là chất màu được tổng hợp trên cơ
sở mạng lưới spinel (AB2O4). Chất màu này có độ bền nhiệt cao, nhiệt độ
nóng chảy khoảng trên 17000C. Đặc tính quan trọng là khả năng thay thế
đồng hình các cation trong mạng lưới spinel. Nguyên liệu loại này có thể đi từ
các oxit, hoặc các muối phân hủy cho oxit. Để hạ nhiệt độ phản ứng có thể
dùng chất khoáng hóa.
Chất màu ZnFe2O4 có màu vàng cam khi sử dụng làm bột màu thì cho
ra màu cho ra màu cam và có thể tạo lớp sơn phủ bền và đẹp. Năng lực thể
hiện màu của kẽm ferit cao, cỡ hạt nhỏ nên có thể ứng dụng làm bột màu
thẩm mỹ.
1.4. KĨ THUẬT TỔNG HỢP CHẤT MÀU THEO PHƯƠNG PHÁP
PHẢN ỨNG RẮN – RẮN (PHƯƠNG PHÁP GỐM)
Chất màu cho gốm sứ thường được chế tạo theo phương pháp gốm
truyền thống. Có thể mô tả phương pháp gốm truyền thống theo dạng sơ đồ
khối dưới đây:
(1) Chuẩn bị
(2) Nghiền,
phối liệu
trộn
(3) Nung
(4)
Sản phẩm
Hình 1.3 Phương pháp gốm truyền thống để sản xuất vật liệu gốm
Phối liệu tạo màu thường được nghiền trộn kỹ đến một độ mịn thích
hợp trong máy nghiền bi ướt hoặc khô. Phối liệu để tạo các chất màu thường
bao gồm:
Lê Thị Khánh Ly
9
Lớp: K33B – Hóa Học
Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội 2
Khóa Luận Tốt Nghiệp
Các oxit hoặc hydroxit, các muối có khả năng phân hủy ở nhiệt độ cao
tạo ra oxit.
Các chất khoáng hóa: Là các chất giúp thúc đẩy nhanh quá trình tổng
hợp chất màu, hạ bớt nhiệt độ nung cần thiết. Chất chảy được sử dụng thường
gặp là:
+ Các hợp chất của bo (H3BO3, Na2B4O7.10H2O, B2O3).
+ Muối của các kim loại kiềm (chủ yếu là cacbonat).
+ Hợp chất của flo (NaF, CaF2, AlF3, Na2SiF6).
Các tông màu khác nhau có thể tạo thành khi thay đổi tỷ lệ các chất đưa
vào trong thành phần của chúng hoặc bằng con đường khác nhờ việc khác
nhau khi lựa chọn các nguyên liệu sử dụng (các oxit, các muối cacbonat…),
hoặc bằng các phương pháp chuẩn bị các hỗn hợp oxit kim loại, hoặc nhiệt độ
nung kết thúc quá trình hoặc đặc trưng của ngọn lửa hoặc mức độ sạch cũng
như độ mịn nguyên liệu ban đầu.
Hỗn hợp nghiền được kiểm tra kỹ về độ mịn qua các sàng thích hợp,
nếu nghiền ướt thì phải sấy khô, đôi khi người ta còn ép thành viên và được
chứa vào các bao nung trước khi đưa vào lò nung. Phối liệu màu thường được
nung ở khoảng nhiệt độ từ 900°C - 1400°C, trong những khoảng thời gian xác
định tùy theo từng loại màu. Hỗn hợp được nghiền và rửa bằng nước hoặc
ngâm chiết với axit HCl 5% để loại bỏ chất chảy, các hợp phần chưa sạch.
Cuối cùng chúng được đem nghiền mịn tới cỡ hạt từ 1 - 30μm. Việc khống
chế cỡ hạt rất quan trọng vì độ chói sẽ giảm với cỡ hạt thô. Nếu nghiền quá
mịn, chất màu dễ bị hòa tan trong pha thủy tinh nóng chảy.
Lê Thị Khánh Ly
10
Lớp: K33B – Hóa Học
Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội 2
Khóa Luận Tốt Nghiệp
Chương 2
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. CÁC THIẾT BỊ VÀ HÓA CHẤT CẦN THIÊT
Thiết bị:
Một số thiết bị chính:
- Lò nung Nebertherm, Đức, Tủ sấy.
- Cân Precisa độ chính xác 0,1mg.
- Các thiết bị chụp phân tích nhiệt, chụp SEM, XRD.
- Cối nghiền, chổi quét sơn và các thiết bị khác.
Hóa chất:
- Bùn đỏ Tân Bình, Thép CT3.
- ZnO, Na2SiF6.
- Nước cất, muối ăn và một số hóa chất khác.
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Phương pháp tổng hợp chất màu
Các nguyên liệu được cân chính xác, trộn với nhau theo tỷ lệ đã định
trước. Phối liệu được nghiền khô với nhau cho đến khi đạt kích thước hạt ≤
0,08mm. Bột phối liệu khô cho vào chén nung có dung tích 30ml, có đậy nắp
và nung ở các nhiệt độ khác nhau với tốc độ nâng nhiệt 10°/phút trong thời
gian 1 giờ.
2.3. CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH
2.3.1. Phương pháp phân tích nhiệt [16]
- Nguyên tắc:
Khi đốt nóng mẫu thì thường trong mẫu sẽ xảy ra những biến đổi về
khối lượng, thành phần, cấu trúc và có thể xảy ra một hay nhiều phản ứng hoá
học giữa các thành phần, các nguyên tố trong mẫu ở một nhiệt độ nào đó. Khi
những biến đổi đó xảy ra thường kèm theo các hiệu ứng thu nhiệt hay toả
Lê Thị Khánh Ly
11
Lớp: K33B – Hóa Học
Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội 2
Khóa Luận Tốt Nghiệp
nhiệt. Tất cả những hiệu ứng trên được xác định và ghi trên các giản đồ. Kết
quả ghi trên giản đồ nhiệt cùng với các phương pháp phân tích, khảo sát khác
sẽ giúp ta rút ra được những kết luận bổ ích về sự biến đổi của mẫu theo nhiệt
độ đốt nóng chúng.
Trong phép phân tích nhiệt, người ta thường sử dụng hai phương pháp
là phương pháp phân tích nhiệt vi sai DTA hoặc DSC và phương pháp phân
tích nhiệt trọng lượng TGA.
- Phương pháp phân tích nhiệt vi sai
Khi đốt nóng một mẫu, việc xuất hiện các hiệu ứng nhiệt rất nhỏ sẽ khó
hoặc không phát hiện được bằng các kỹ thuật đo thông thường. Vì vậy, phải
dùng phương pháp DTA hoặc DSC. Phương pháp DTA và DSC sử dụng một
cặp pin nhiệt điện và một điện kế để đo sự chênh lệch nhiệt độ giữa hai vật
khi đốt nóng chúng. Trong hai vật đó, một vật là vật liệu cần nghiên cứu và
vật kia có tính trơ về nhiệt. Nếu mẫu bị đốt nóng có biến đổi thì bao giờ cũng
kèm theo các hiệu ứng nhiệt và lúc đó trên đường DTA hoặc đường DSC sẽ
xuất hiện các đỉnh (pic) tại điểm mà mẫu có sự biến đổi.
Phương pháp này cho ta biết sơ bộ về các hiệu ứng nhiệt xảy ra, định
tính và sơ bộ về định lượng các hợp phần có trong mẫu mà chúng ta khảo sát.
- Phương pháp phân tích nhiệt trọng lượng (TGA)
Phương pháp này dựa vào sự thay đổi trọng lượng của mẫu cần nghiên
cứu khi ta đem nung nóng mẫu đó. Khi mẫu được đốt nóng, trọng lượng của
mẫu bị thay đổi là do mẫu bị phân huỷ nhiệt tạo ra khí thoát ra như hơi nước,
khí CO2 (phân huỷ hợp phần cacbonat,...), SO2 (phân huỷ các hợp phần
sunfua) hay do mẫu bị mất nước vật lý (ẩm – hấp phụ), nước cấu trúc (nước
hiđrat – nước kết tinh trong tinh thể mẫu). Nếu cân liên tục một mẫu bị đốt
nóng, ta có thể biết sự thay đổi về trọng lượng của mẫu ứng với sự thay đổi về
nhiệt độ.
Lê Thị Khánh Ly
12
Lớp: K33B – Hóa Học
Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội 2
Khóa Luận Tốt Nghiệp
Kết hợp hai phương pháp DTA và TGA cho phép xác định sự biến
thiên trọng lượng, hiệu ứng nhiệt tương ứng theo nhiệt độ đốt nóng. Đây là
những thông số cho phép ta xác định được lượng nước hyđrat cũng như xác
lập các phản ứng phân huỷ nhiệt có thể có cũng như dự đoán các thành phần
sau từng giai đoạn tăng nhiệt độ.
Các mẫu phân tích nhiệt được ghi giản đồ phân tích nhiệt trên máy
Labsys TG/DSC STERAM của Pháp tại trung tâm Hóa vật liệu, khoa Hóa –
trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên. Chế độ phân tích nhiệt như sau:
+ Tốc độ đốt nóng 10oC/ phút.
+ Nâng nhiệt từ 25oC tới 1200oC.
+ Môi trường không khí.
2.3.2. Phương pháp nhiễu xạ tia X (XRD) [6]
- Nguyên tắc:
Theo lý thuyết cấu tạo tinh thể, mạng tinh thể được xây dựng từ các
nguyên tử hay ion phân bố đều đặn trong không gian theo một quy luật xác
định. Khi chùm tia Rơnghen tới bề mặt tinh thể và đi vào bên trong mạng lưới
tinh thể thì mạng lưới này đóng vai trò như một cấu tử nhiễu xạ đặc biệt. Các
nguyên tử, ion bị kích thích bởi chùm tia X tới sẽ tạo thành các tâm phát ra
các tia phản xạ. Mặt khác, các nguyên tử, ion này được phân bố trên các mặt
phẳng song song. Do đó, hiệu quang trình của hai tia phản xạ bất kỳ trên hai
mặt phẳng song song cạnh nhau được tính như sau:
= BC +CD = 2dsin
Trong đó:
D: là độ dài khoảng cách giữa hai mặt phẳng song song.
: là góc giữa chùm tia X và mặt phẳng phản xạ.
Lê Thị Khánh Ly
13
Lớp: K33B – Hóa Học

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét