
Thứ Ba, 12 tháng 4, 2016
Nghiên cứu tổng hợp chất phát quang kẽm sunfua pha tạp mn2+
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
hai cơ chế phụ thuộc vào đặc điểm cấu tạo của nền và tính chất của hoạt kích.
Đó là cơ chế phát quang tái hợp tức thời và cơ chế phát quang tái hợp kéo dài.
Phát quang theo cơ chế tái hợp tức thời
Quang phát quang theo cơ chế tái hợp tức xảy ra trong tinh thể chất
phát quang mà không có tương tác tĩnh điện giữa Me, R và A ( Me, R và A
không phân cực). Trước tiên ta xét cơ chế phát quang của nền khi không có
ion hoạt kích.
Cơ chế phát quang của nền.
Trong tinh thể nền nguyên chất, sơ đồ vùng năng lượng và cơ chế phát
quang được chỉ ra ở hình dưới đây.
Hình 6: Cơ chế phát quang của nền
Quá trình phát quang trải qua các giai đoạn như sau:
+Giai đoạn 1: Nền hấp thụ photon hνht và electron nhận được năng
lượng, chuyển từ mức cơ bản ở vùng hoá trị lên mức năng lượng cao hơn ở
trạng thái kích thích trên vùng dẫn. Hình thành một cặp electron_lỗ trống
tương ứng vùng dẫn và vùng hoá trị (hình 6a).
+Giai đoạn 2: Ở vùng hoá trị, lỗ trống vừa tạo ra nhanh chóng bị
electron bên cạnh trung hoà. Đồng thời hình thành một lỗ trống mới. Ở vùng
dẫn electron mất một phần năng lượng và trở về mức năng lượng thấp nhất
trong vùng dẫn ( hình 6b ).
+Giai đoạn 3: Eletron có bước chuyển từ vùng dẫn trở về trạng thái cơ
bản ở vùng hoá trị, tái hợp với lỗ trống ở đây, đồng thời bức xạ ra một photon
Phạm Thùy Dương
11
Lớp K35C Hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
có tần số νpq (hình 6c). Năng lượng của photon bằng độ rộng của vùng cấm
Eg, là giá trị riêng cho cho từng chất. Do đó bức xạ phát ra được gọi là bức xạ
đặc trưng.
h pq h
c
pq
Eg
Khi Eg = 1,8eV ÷ 3,1 eV thì bức xạ phát ra là ánh sáng nhìn thấy. Hiện
tượng được gọi là hiện tượng phát quang.
Thời gian sống của electron ở trạng thái kích thích ở vùng dẫn là rất
ngắn, nhỏ hơn 10-8 s. Bức xạ phát quang hνpq sẽ xuất hiện ngay sau khi nền
hấp thụ bức xạ kích thích hνht.. Do đó hiện tượng phát quang sẽ dừng lại ngay
sau khi nguồn kích thích bị ngắt. Vì lý do đó mà người ta gọi đây là cơ chế
phát quang tái hợp tức thời.
Cơ chế phát quang của tinh thể phát quang có mặt hoạt kích
Trong tinh thể chất phát quang có mặt ion hoạt kích, phân bố các vùng
năng lượng có sự khác biệt so với tinh thể nền nguyên chất. Giữa vùng dẫn và
vùng hoá trị không phải là vùng cấm hoàn toàn mà có sự xuất hiện của một số
mức năng lương của ion hoạt kích. Các mức này cho phép các electron nằm
lại đó khi nó thực hiên bước chuyển từ vùng dẫn về vùng hoá trị.
Cơ chế phát quang trong trường hợp này như sau: Quá trình phát quang
trải qua bốn giai đoạn.
+ Giai đoạn 1: Nền hấp thụ photon hνht, electron trong vùng hoá trị của
nền nhận được năng lượng và thực hiện bước nhảy từ trạng thái cơ bản lên
trạng thái kích thích ở vùng đẫn. Quá trình này hình thành một cặp
electron_lỗ trống tương ứng ở vùng dẫn và vùng hoá trị ( hình 7a).
+ Giai đoạn 2: Ở vùng hoá trị, lỗ trống vừa tạo ra nhanh chóng bị
electron bên cạnh trung hoà. Đồng thời hình thành một lỗ trống mới. Ở vùng
dẫn electron mất một phần năng lượng và trở về mức năng lượng thấp nhất
trong vùng dẫn ( hình 7b ).
Phạm Thùy Dương
12
Lớp K35C Hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
+ Giai đoạn 3: Electron ở trạng thái kích thích từ vùng dẫn thực hiện
bước nhảy về trạng thái cơ bản ở vùng hoá trị. Tuy nhiên khi chuyển qua
vùng cấm electron rơi vào mức năng lượng của ion hoạt kích. Quá trình này
phát ra bức xạ hνpq (hình 7c)
+ Giai đoạn 4: Electron quay về tái hợp với lỗ trống ở nền. Quá trình
này có thể phát ra xung dao động gọi là phonon, không phải là photon ( hình
7e). Khi ngắt nguồn kích thích thì bức xạ phát ra cũng tắt ngay.
Hình 7: Cơ chế phát quang của tinh thể phát quang có mặt hoạt kích
Phát quang theo cơ chế tái hợp kéo dài
Hiện tượng phát quang xảy ra theo cơ chế tái hợp kéo dài đối với những
tinh thể phát quang mà có sự tương tác tĩnh điện giữa Me, R và A. hay nói
cách khác các thành phần Me, R và A là phân cực. Sự tương tác giữa các
thành phần làm xuất hiện trên giản đồ năng lượng những mức năng lượng sát
vùng dẫn và vùng hoá trị mà ta gọi là các bẫy năng lượng. Bẫy năng lượng
gần sát với vùng dẫn gọi là bẫy electron (electron trap) còn bẫy nằm sát vùng
hoá trị gọi là bẫy lỗ trống ( hole trap). Các vùng năng lượng trong tinh thể
chất phát quang loại này được chỉ ra ở hình 8.
Hình 8: Các mức năng lượng trong tinh thể khi có tương tác
giữa Me, R và A
Phạm Thùy Dương
13
Lớp K35C Hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
Quá trình hấp thụ và bức xạ như sau: Khi chiếu bức xạ kích thích vào
tinh thể chất phát quang, photon trong chùm tia tới kích thích electron chuyển
mức năng lượng từ vùng hoá trị lên vùng dẫn, hình thành cặp electron_lỗ
trống tương ứng ở vùng dẫn và vùng hoá trị. Lúc này ở vùng hoá trị_lỗ trống
có thể rơi vào bẫy lỗ trống ( hole trap). Trên vùng dẫn, electron sẽ mất một
phần năng lượng và nằm ở trạng thái có năng lượng Ec thấp nhất trong vùng
dẫn. Tại đây electron sẽ bị rơi vào các bẫy năng lượng chờ sẵn ( mức năng
lượng của bẫy là ED). Và lưu lại đấy một thời gian τ trước khi nhảy trở lại
vùng dẫn (Ec) dưới tác dụng của kích thích nhiệt. Thời gian electron lưu lại
trong bẫy phụ thuộc vào độ sâu của bẫy (EC – ED) và nhiệt độ T. Thời gian đó
có thể tính theo công thức:
0e
E ED
C
kT
Trong đó τ0 là hằng số: τ0 = 10-8 s, k là hằng số plank, k = 6,6.10-34, T là
nhiệt độ 0K. Theo tính toán thì với tinh thể ZnS, giá trị τ = 0,1s. Sau đó
electron có thể lại rơi vào bẫy lần nữa hoặc là thực hiện một chuyển năng
lượng tái hợp vào ion hoạt kích và phát ra một bức xạ hνpq. Sau đó electron
trở về tái hợp với lỗ trống dang nằm trong hole trap. Các giai đoạn phát quang
tái hợp kéo dài được chỉ ra ở hình 9.
Vậy sau khi nhận kích thích,
electron chuyển mức từ vùng hoá trị lên
vùng dẫn. Khi rơi vào bẫy năng lượng,
electron lưu lại ở đó một thời τ trước
khi quay trở lại mức năng lượng thấp
nhất ở vùng dẫn. Sau khi đã quay lại
vùng dẫn, electron có thể lại tiếp tục rơi
Phạm Thùy Dương
14
Lớp K35C Hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
vào bẫy năng lượng lần thứ 2, rồi lần thứ 3...Và cuối cùng thực hiện bước
chuyển năng lượng để tái hợp vào ion hoạt kích và bức xạ ra photon hνpq Nghĩa
là bức xạ có thể được phát khi nguồn kích thích đã bị ngắt một thời gian. Do đó
người ta gọi quá trình này là phát quang theo cơ chế tái hợp kéo dài.
1.2.3. Phổ hấp thụ và phổ phát xạ của tinh thể phát quang. Hiện tượng
dịch chuyển Stokes và ứng dụng
Phổ hấp thụ và phát xạ của quang phát quang: Khi ghi phổ hấp thụ
và phổ phát quang ở tinh thể phát quang người ta thấy rằng bước sóng của
bức xạ phát quang thường lớn hơn bước sóng của bước xạ kích thích.
Hình 10: Phổ hấp thụ và bức xạ của tinh thể phát quang.
Chuyển dịch Stokes hay còn gọi là dịch về phía đỏ, là hiện tượng bức
xạ phát ra có bước sóng dài hơn so với bước sóng của bức xạ kích thích ( λpq
> λht ). Hiện tượng này được giải thích như sau:
Trong tinh thể ion hoạt động (ion có electron bị kích thích và sẽ phát
xạ) không đứng độc lập mà có tương tác với với các ion xung quanh. Giả sử
trong tinh thể ion hoạt động liên kết với sáu ion khác loại như được chỉ ra ở
hình 11a.
Hình 11
Phạm Thùy Dương
15
Lớp K35C Hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
Độ dài mỗi liên kết là R.Giả sử ban đầu khi chưa có kích thích, độ dài
liên kết là R = R0, được biểu diễn bởi điểm A trên biểu đồ năng lượng. Quá
trình hấp thụ photon của ion xảy ra rất nhanh, năng lượng của ion tăng gần
như tức thời lên ở trạng thái được biểu diễn bởi điểm B. Sự hấp thụ năng
lượng của ion tạo ra một dao động mạng, khoảng cách R tăng lên giá trị R1.
Đồng thời ion hoạt động mất một phần năng lượng dưới dạng phát ra xung
dao động (phonon). Trạng thái ion hoạt động chuyển về điểm C trên biểu đồ
năng lượng. Sau đó ion hoạt động giải phóng năng lượng dưới dạng phát ra
bức xạ điện từ, trở về điểm D. Lúc này khoảng cách giữa ion hoạt động và
ion xung quanh trở về giá trị ban đầu R0 và phát ra một phonon (hình 11b).
Vậy năng lượng của photon kích thích bằng tổng năng lượng của
photon phát xạ và các phonon. Nghĩa là photon phát xạ có năng lượng thấp
hơn năng lượng của photon kích thích, đồng nghĩa với bước sóng phát xạ (
phát quang) dài hơn bước sóng của bức xạ kích thích.
Ứng dụng của hiện tượng chuyển dịch Stokes: Chế tạo đèn huỳnh
quang. Trong đèn huỳnh quang người ta cho một chùm electron qua khí
quyển chứa hơi thuỷ ngân và argon trong một ống thuỷ tinh. Năng lượng
chùm electron sẽ kích thích hơi thuỷ ngân phát ra bức xạ tử ngoại. Bức xạ tử
ngoại sẽ đập vào lớp bột phát quang phủ trên thành ống, kích thích lớp bột
phát quang theo cơ chế vừa xét ở trên. Do có sự dịch chuyển Stokes nên bức
xạ phát quang nằm trong vùng nhìn thấy( hình 12).
Hình 12: Nguyên lý đèn huỳnh quang
Phạm Thùy Dương
16
Lớp K35C Hóa

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét