
Thứ Hai, 21 tháng 3, 2016
Hội nhập kinh tế quốc tế và vai trò của nó đối với quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá ở việt nam hiện nay khoá luận tốt nghiệp đại học
Khoa Giáo dục chính trị
Khóa luận tốt nghiệp
coi trọng đến chất lượng đội ngũ cán bộ và công nhân viên, coi sự phát triển
con người là nhiệm vụ trung tâm, giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu. So
với các nước có thu nhập như ta, chúng ta có một đội ngũ tri thức tương đối
lớn, đã có lực lượng lao động trí tuệ cao - chủ thể đi đầu thực hiện nhiệm vụ
quan trọng như lựa chọn, tiếp thu, làm chủ, thích nghi và sáng tạo công nghệ
mới. Hơn nữa chúng ta đang có một chiến lược giáo dục đào tạo đúng đắn:
Nâng cao dân trí đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài nhằm tạo nên một năng
lực nội sinh to lớn cho CNH, HĐH đất nước.
Đồng thời, Việt Nam có lợi thế của một nước đi sau, điều đó tạo điều
kiện cho chúng ta đi tắt đón đầu tiếp thu kinh nghiệm và rút kinh nghiệm từ
các nước đi trước, học hỏi kinh nghiệm của họ, tranh thủ được những thời cơ
và tránh được những sai lầm, rút ngắn được CNH, HĐH trong thời kỳ quá độ.
Như vậy, những điều kiện trong nước nêu trên là những khả năng thực tế
do hiện thực sinh ra. Nó còn đang ở dạng tiềm thế, nó sẽ trở thành hiện thực
khi có điều kiện phù hợp tức là cần phải kết hợp với sức mạnh ngoại lực.
Không nên bỏ qua những cơ hội đó Việt Nam cần phải tham gia hội nhập với
nền kinh tế thế giới để tận dụng được những mặt tích cực của quá trình hội
nhập để đat được mục tiêu phát triển đất nước.
Nhận thấy được tầm quan trọng cũng như tính cấp thiết của quá trình hội
nhập kinh tế, ngay từ Đại hội VI Đảng ta cho rằng: Gắn thị trường trong nước
và xuất khẩu, có chính sách bảo vệ sản xuất nội địa. Tại Đại hội VII đã đưa ra
luận điểm mang tính chỉ đạo tổng quát cho việc thực hiện chính sách mở cửa:
“Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, phấn đấu vì hòa
bình độc lập và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế với tất
cả các quốc gia, tất cả các tổ chức kinh tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập,
chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi” [5, tr.147]. Đại hội Đảng lần thứ VIII
(1996) cũng đã đưa ra và cụ thể hóa quan điểm của đại hội VII như sau: xây
Lê Thị Hiên
11
Khoa Giáo dục chính trị
Khóa luận tốt nghiệp
dựng một nền kinh tế mở, hội nhập khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất
khẩu,…điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực, vừa hội nhập
toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta và các đối tác. Chủ động tham gia
thương mại thế giới các diễn đàn, các tổ chức, các định chế quốc tế một cách
có chọn lọc, với bước đi thích hợp. HNKTQT tuy là xu hướng tất yếu khách
quan nhưng nó sẽ không thể có được nếu như ta đóng cửa. Do đó, chúng ta
phải chủ động hội nhập xây dựng một nền kinh tế tự chủ trên cơ sở học tập
kinh nghiệm các nước đi trước, mở rộng quan hệ hợp tác song phương và đa
phương, để từng bước đưa đất nước xây dựng thành công sự nghiệp CNH,
HĐH. Từ việc nhận thức đó các Đại Hội lần thứ IX, X của Đảng ta đã phát
triển những quan điểm trên lên một tầm cao mới: “Thực hiện nhất quán
đường lối độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối
ngoại mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế, đưa quan hệ quốc
tế song phương và đa phương đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững…”, [6,
tr.119]; “chủ động và tích cực HNKTQT, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế
trên các lĩnh vực khác,…” [7, tr.112]
Cùng với toàn cầu hóa về kinh tế, HNKTQT được coi là một trong
những xu hướng chủ yếu của quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại, với sự tham gia
của hầu hết các nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên do đặc
điểm của mỗi quốc gia là không giống nhau nên mỗi nước phải tìm cho mình
những bước đi thích hợp để hội nhập có hiệu quả.
1.2. Lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.2.1. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNH và HĐH là hai khái niệm được hình thành khi mà nhân loại đã trải
qua hai cuộc cách mạng kĩ thuật, công nghiệp hóa được hiểu là quá trình thay
thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Với việc trang bị như
vậy, nó góp phần đưa nền kinh tế phát triển ở một trình độ mới. Do đó, CNH,
Lê Thị Hiên
12
Khoa Giáo dục chính trị
Khóa luận tốt nghiệp
HĐH là quá trình tất yếu mà tất cả các quốc gia nếu như muốn đưa nền kinh
tế phát triển. Và ở mỗi nước CNH, HĐH đều có những đặc điểm riêng , thời
gian diễn ra khác nhau và cách thức, con đường riêng phù hợp với hoàn cảnh
và điều kiện cụ thể của quốc gia đó.
Tương tự vậy, ở Việt Nam sau khi nước nhà được thống nhất, cả nước đi
lên chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bắt đầu.
Nhưng do hậu quả của nhiều năm do chiến tranh để lại, do cơ chế quản lý bộc
lộ nhiều yếu kém, đời sống kinh tế xã hội có nhiều bất ổn đã đẩy nền kinh tế
nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng kéo dài trong nhiều năm liền.
Để thoát khỏi tình trạng đó và với mục đích tạo ra những cơ hội và tiềm
năng cho việc phát triển đất nước chúng ta phải tiến hành CNH, HĐH.
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại,
rút từ kinh nghiệm tiến hành CNH, HĐH và từ thực tiễn tiến hành công
nghiệp hóa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Hội nghị Ban chấp hành Trung
ương lần thứ bảy khóa VI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng
Cộng sản Việt Nam đã xác định:
“CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã
hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách
phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và
phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao
động xã hội cao” [2, tr.281].
CNH được đề ra từ đại hội Đảng III nhưng CNH, HĐH được chính thức
quan tâm và đề ra chủ trương từ Đại Hội VII, VIII. Thực chất khi công nghiệp
hóa gắn với hiện đại hóa ở nước ta, nó là quá trình tạo ra những tiền đề vật
chất kỹ thuật về con người, công nghệ, phương tiện, phương pháp, những yếu
tố cơ bản của lực lượng sản xuất cho Chủ nghĩa xã hội.
Lê Thị Hiên
13
Khoa Giáo dục chính trị
Khóa luận tốt nghiệp
CNH, HĐH chính là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các lĩnh vực
của đời sống xã hội dựa trên sự vận dụng những tiến bộ của khoa học công
nghệ nhằm đưa đất nước từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước
công nghiệp có cơ sở vật chất, kĩ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ, đòi sống vật chất tinh thần được nâng cao, quốc
phòng an ninh vững chắc, đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Với việc xác định CNH, HĐH là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt
thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội và trong thực tế nhiều năm gần đây
chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
1.2.2. Sự cần thiết phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam
Sau năm 1975, cả nước bắt tay vào xây dựng chế độ mới, chế độ xã hội
chủ nghĩa, thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội bắt đầu trên cả nước, nhưng
đây cũng là thời kỳ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đứng trước nhiều
thách thức và khó khăn lớn.
Trong khi yêu cầu của chủ nghĩa xã hội là cần phải có cơ sở vật chất kĩ
thuật hiện đại, có nền kinh tế phát triển cao. Nhưng do hậu quả của chiến
tranh, do cơ chế tập trung quan liêu bao cấp có nhiều bất cập và yếu kém đã
làm cho nền kinh tế không phát triển được, khủng hoảng kinh tế kéo dài và
trầm trọng, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, tình hình đó đòi hỏi chúng ta
phải tiến hành CNH, HĐH đất nước. Sự nghiệp này sẽ là tiền đề, là cách thức,
là con đường để đạt tới một nền kinh tế phát triển, đồng thời chính sự nghiệp
đó sẽ xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật vững chắc để chúng ta tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
Mặt khác, do xuất phát điểm thấp lại là một nước nông nghiệp lạc hậu
chậm phát triển, cơ sở vật chất kĩ thuật thấp kém, trình độ của lực lượng sản
xuất chưa phát triển, quan hệ sản xuất mới thiết lập nên chưa được hoàn thiện.
Lê Thị Hiên
14
Khoa Giáo dục chính trị
Khóa luận tốt nghiệp
Vì vậy CNH, HĐH là quá trình tất yếu khách quan để xây dựng cơ sở vật chất
kĩ thuật và hoàn thiện quan hệ sản xuất.
Cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật đang phát triển mạnh mẽ như vũ
bão, xu thế giao lưu hội nhập ngày càng phát triển, nhu cầu ứng dụng và
chuyển giao công nghệ ngày càng nhiều. Khoa học - công nghệ mới ngày
càng tinh vi hơn, góp phần vào việc tìm kiếm các vật thể mới, nâng cao năng
lực quản lý và lao động của con người. Khoa học - công nghệ tham gia vào
yếu tố của lực lượng sản xuất góp phần làm phong phú thêm công nghệ sản
xuất, nâng cao kỹ năng sản xuất góp phần vào sự phát triển của sản xuất nói
riêng và xã hội nói chung. Vì thế Việt Nam tất yếu phải tiến hành CNH, HĐH
để có thể nắm bắt được những cơ hội ứng dụng các thành tựu khoa học - công
nghệ tiên tiến trên thế giới góp phần phát triển lực lượng sản xuất và các lĩnh
vực khác của đời sống xã hội.
Ngoài ra CNH, HĐH ở nước ta còn có một số tác dụng lớn đó là:
CNH, HĐH góp phần phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
Khi kết thúc thời kỳ quá độ hình thành căn bản nền kinh tế công nghiệp gắn
với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ. Nước ta đi lên chủ
nghĩa xã hội với điểm xuất phát thấp, nền nông nghiệp lạc hậu. Vì vậy CNH,
HĐH là quá trình tạo ra những điều kiện vật chất - kĩ thuật cần thiết về con
người và khoa học công nghệ, thúc đẩy chuyển đổi cở cấu kinh tế nhằm huy
động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để không ngừng phát triển năng
suất lao động xã hội, làm cho nền kinh tế phát triển nhanh, đời sống vật chất
tinh thần được nâng cao, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ môi
trường sinh thái.
Quá trình CNH, HĐH tạo ra cơ sở vật chất - kĩ thuật làm biến đổi về chất
lượng sản xuất, nhờ đó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực - nhân tố trung
tâm của sự phát triển kinh tế. Đồng thời tạo điều kiện cho việc xây dựng và
phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Lê Thị Hiên
15
Khoa Giáo dục chính trị
Khóa luận tốt nghiệp
Sự nghiệp CNH, HĐH thúc đẩy sự phân công lao động xã hội phát triển,
thúc đẩy quá trình quy hoạch vùng và lãnh thổ hợp lý hơn theo hướng chuyên
canh, tập trung, làm cho quan hệ kinh tế giữa các vùng miền trở nên
thống nhất.
CNH, HĐH có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển
cao trên cơ sở củng cố và phát triển khối liên minh công - nông - trí, góp phần
tăng cường sức mạnh quyền lực và hiệu quả bộ máy quản lý kinh tế của nhà
nước. Đồng thời CNH, HĐH còn là tiền đề để xây dựng và phát triển, hiện đại
hóa nền quốc phòng - an ninh.
1.3. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế đối với quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
1.3.1. Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần khơi thông, huy động và phân
bổ có hiệu quả nguồn vốn từ nước ngoài cho công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước
Tiến hành CNH, HĐH đòi hỏi chúng ta phải có nguồn vốn lớn phục vụ
đầu tư. Khi tham gia vào quá trình hội nhập sẽ giúp cho nước ta sử dụng tốt
và có hiệu quả nguồn vốn trong nước, tăng cơ hội tiếp cận nhiều nguồn vốn
của nước ngoài,…Tuy nhiên, tiến lên chủ nghĩa xã từ một nền kinh tế nghèo
và lạc hậu làm cho việc tích lũy vốn từ nội bộ của nền kinh tế hết sức khó
khăn. Để thoát khỏi những khó khăn ngoài những nguồn vốn tích lũy từ nội
bộ nền kinh tế chúng ta cần phải tận dụng mọi khả năng để thu hút các nguồn
vốn từ bên ngoài bao gồm nguồn vốn trực tiếp và nguồn vốn gián tiếp.
Đối với nguồn vốn trực tiếp (FDI): FDI giữ vai trò trọng yếu trong CNH,
HĐH ở Việt Nam. Trước hết đây sẽ là nguồn vốn bù đắp vào tình trạng thiếu
vốn nghiêm trọng của Việt Nam khi bắt đầu quá trình công nghiệp hóa. Hơn
nữa, đây là dạng đầu tư an toàn không gây nợ, ít hậu quả tiêu cực do FDI là
dòng vốn dài hạn, không dễ bị rút ồ ạt trước thay đổi đột ngột về kinh tế và
Lê Thị Hiên
16

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét