
Thứ Tư, 23 tháng 3, 2016
Vấn đề trẻ em lao động sớm ở làng nghề truyền thống tại xã hoàng đôn, huyện duy tiên, tỉnh hà nam hiện nay
không mong các cháu tổ chức những đội Trần Quốc Toản để đi đánh giặc
và lập được nhiều chiến công nhưng mà cốt để tham gia kháng chiến bằng
cách giúp đỡ đồng bào. Từ 5 đến 10 cháu tổ chức thành một Đội giúp
nhau học hành, khi học rảnh, mỗi tuần mấy lần cả đội đem nhau đi giúp
đồng bào. Trước giúp các nhà chiến sỹ, thương binh, lần lượt giúp những
nhà ít người. Sức các cháu làm được việc gì thì giúp việc ấy. Thí dụ: quét
nhà, gánh nước, lấy củi, xay lúa, giữ em, dạy chữ quốc ngữ v.v... Đội này
thi đua với đội khác. Mỗi tháng một lần, các đội báo cáo cho Bác biết. Đội
nào giỏi hơn, Bác sẽ gửi giấy khen. Đó là ý kiến của Bác. Nếu cháu nào
có nhiều sáng kiến tìm ra nhiều cách giúp đỡ càng tốt. Các cháu nên hiểu
rằng giúp đỡ đồng bào tức là tham gia kháng chiến. Và do đó các cháu sẽ
luyện tập cái tinh thần siêng năng và bác ái để sau này thành người công
dân tốt của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phú.
1.1.2.Khái niệm lao động
* Quan điểm ngoài Mác xít
Lao động là hoạt động có mục đích của con người nhằm biến đổi các
vật chất tự nhiên thành của cải vật chất cần thiết cho đời sống của mình .
Trong quá trình sản xuất, con người sử dụng công cụ lao động tác động
lên đối tượng lao động nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ cho lợi ích của con
người. Lao động là điều kiện chủ yếu cho sự tồn tại của xã hội loài người, là
cơ sở của sự tiến bộ về kinh tế, văn hóa, xã hội. Nó cũng là nhân tố của bất
cứ quá trình sản xuất nào.
Khi con người tham gia vào quá trình sản xuất thì con người đó là con
người lao động. Như vậy, lao động là hoạt động có mục đích của con nguời,
thông qua hoạt động đó con người tác động vào giới tự nhiên, cải biến chúng
thành những vật có ích nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người.
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về lao động
7
Lao động là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm
tạo ra những sản phẩm phục vụ cho các nhu cầu của mình là một quá trình
trong đó bản thân con người đóng góp vai trò môi giới, điều tiết và giám
sát trong sự trao đổi vật chất giữa người và tự nhiên
Lao động là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại. Lao
động cung cấp cho con người những phương tiện cần thiết để sống, đồng
thời lao động sáng tạo ra cả bản thân con người. Nhờ có lao động con
người tách ra khỏi giới động vật. Một trong những sự khác nhau căn bản
giữa con người và động vật là ở chỗ động vật sử dụng các sản phẩm có
sẵn trong giới tự nhiên, còn con người thì lao động mà giới mà bắt giới tự
nhiên phục vụ mục đích của mình, thay đổi nó. Bắt nó phục tùng cho
những nhu cầu của mình. Chính thông qua hoạt động lao động nhằm cải
tạo khách quan mà con người mới có thể phản ánh được thế giới khách
quan, mới có ý thức về thế giới khách quan, bắt thế giới khách quan bộc
lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của mình
thành những hiện tượng nhất định.
Vì thế có thể nói rằng lao động tạo ra ý thức tư tưởng hoặc nguồn
gốc cơ bản của ý thức tư tưởng là sự phản ánh thế giới khách quan vào
đầu óc con người trong quá trình lao động.
Sự hình thành ý thức không phải là quá trình thu nhận thụ động mà
là kết quả hoạt động chủ động của con người. Nhờ có lao động, con người
tác động vào thế giới khách quan, bắt thế giới khách quan phục vụ cho
mình.
Ăng-ghen đã viết trong tác tác phẩm: “Vai trò của lao động trong
lịch sử tiến hóa từ vượn thành người”, ông nhấn mạnh “Lao động là điều
kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ sinh hoạt loài người, và như thế đến một
mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo
8
ra chính bản thân con người”. Như vậy, có thể phân biệt con người với
súc vật bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng
được.“Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật
ngay khi con nguời bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay
khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình.
Đó là một bước tiến do cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp
sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”[7, tr.44]
Đồng thời các ông cũng khẳng định: “Người là giống vật duy
nhất có thể lao động mà thoát khỏi trạng thái thuần túy loài vật”
[7,tr.19]
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất con người đã làm thay đổi
cải biến tự nhiên. Thông qua hoạt động lao động sản xuất con người sản
xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ đời sống của mình giúp
hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy, xác lập quan hệ xản xuất.
Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của
con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã
hội. Với tư cách là thực thể xã hội con người hoạt động thực tiễn, tác
động vào tự nhiên, cải biến tự nhiên theo mục đích của mình đồng thời
thúc đẩy sự vận động của lịch sử xã hội. Trong quá trình cải biến tự
nhiên con người cũng làm ra lịch sử chính bản thân con người. Hoạt
động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người,
vừa là phương thức để biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội.
Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” C. Mác và Ph. Ăghen viết
“nhưng muốn sống được thì trước hết phải có thức ăn, thức uống,
nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa”. Vì vậy con người phải
tham gia vào sản xuất vào những thứ đó. Quá trình sản xuất hay quá
9
trình lao động ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tối thiểu đầu tiên của
con người đã giúp con người trở thành “Người” theo đúng nghĩa của nó.
Nhờ lao động, con người đã sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình
và đó là điểm khác biệt giữa con người và con vật. Khi nhận định bước
nhảy từ loài vượn sang loài người thì nhờ có ngôn ngữ và lao động. Lao động
lúc mới phát sinh và phát triển từ tổ tiên loài vượn thì dĩ nhiên là tiến hành
theo bản năng nhưng ý thức và ngôn ngữ đã xuất hiện và phát triển thì lao
động trở thành lao động có tính chất xã hội. Ở mỗi bước tiến lên của lao động
xã hội của tiếng nói và ý thức lại hình thành ra nhữn con đường mới của hoạt
động liên hệ thần kinh trong vỏ não. Và trên cơ sở đó lựa chọn tự nhiên cố
định – trên một cơ cấu di truyền trên vỏ não làm cho con đường liên hệ thần
kinh mới xuất hiện trong thực tiễn lao động. Tầng trên của võ não người
chính là cơ sở di truyền của bản năng lao động xã hội của con người nguyên
thủy mà C.Mác và Ph.Ănggen đã nhận định là bản năng có ý thức. Do đó bản
năng lao động xã hội với tư cách là bản năng có ý thức. Lao động xã hội
quyết định đời sồng con người nên bản năng sinh vật được thu hút và hội
nhập vào bản năng lao động xã hội, cái bản năng xã hội đặc thù của con
người.
Theo Ph.Ănggen cùng với giới tự nhiên cung cấp những vật liệu cho
hoạt động sản xuất , lao động là nguồn gốc của mọi của cải. Hoạt động sản
xuất vật chất tạo ra tư liệu sinh hoạt nhằm duy trì mọi sự tồn tại và phát triển
của con người nói chung cũng như từng cá thể con người nói riêng. Tuy nhiên
ngoài chức năng đầu tiên và trực tiếp đó “lao động còn là cái gì vô cùng lớn
lao hơn thế nữa” [ 8,tr.641]
Bằng việc “sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình , con người
đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình” [9,tr.640]
10
Trải qua lịch sử dài lâu chinh phục giới tự nhiên con người càng hiểu rõ
hơn sức mạnh của mình. Cùng với việc cải tiến bản thân mình và các quan hệ
giữa con người với nhau làm cho việc chinh phục giới tự nhiên đạt hiệu quả
cao hơn. Con người và xã hội loài người được hình thành và phát triển trong
quá trình hoạt động sản xuất vật chất “lao động đã sáng tạo ra bản thân con
người” [10,tr.641] và xã hội đã ra đời cùng với sự xuất hiện của con người
hoàn chỉnh.
* Quan điểm của Hồ Chí Minh về lao động
Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của
chúng ta. Trong xã hội ta, không có nghề nào thấp kém, chỉ có những kẻ lười
biếng, ỷ nại mới đáng xấu hổ. Người nấu bếp, người quét rác cũng như thầy
giáo, kỹ sư nếu làm tròn trách nhiệm thì đều vẻ vang cả.
* Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về lao động
Theo Hiến pháp của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992 tại Điều 5 lao động được định nghĩa như sau: “lao động là quyền và
nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ra ngày càng
nhiều việc làm cho người lao động”. [4, tr.10]
Nhà nước sẽ ban hành chính sách, chế độ bảo hộ lao động. Nhà nước
cũng quy định thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế
độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức, những người làm công ăn lương,
khuyến khích các hình thức bảo hiểm đối với người lao động. Mọi hoạt động
tạo ra việc làm, tự tạo việc làm, dạy nghề và học nghề để có việc làm, mọi
hoạt động sản xuất kinh doanh thu hút những người lao động đều được Nhà
nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi hoặc giúp đỡ. Và Nhà nước có
chính sách khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức và cá nhân
trong và ngoài nước bao gồm cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu
tư, phát triển sản xuất kinh doanh để giải quyết việc làm cho người lao động.
11
Nhà nước sẽ có những trách nhiệm sau:
Thứ nhất, khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức cá nhân
trong và ngoài nước đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh để giải quyết việc
làm cho người lao động. Và các hoạt động tạo ra việc làm, dạy nghề và học
nghề để có việc làm.
Thứ hai, tuyên truyền phổ biến rộng rãi để mọi công dân nắm được các
văn bản pháp lý.
Thứ ba, kiểm tra việc thực hiện.
Thứ tư, giải quyết khiếu nại, tố cáo về lao động.
Thứ năm, xử lý các vụ việc vi phạm về quyền và nghĩa vụ lao động của
công dân
Khi con người tham gia vào quá trình sản xuất thì con người đó là con
người lao động. Như vậy, lao động là hoạt động có mục đích của con nguời,
thông qua hoạt động đó con người tác động vào giới tự nhiên, cải biến chúng
thành những vật có ích nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người. Hoạt
động lao động có 3 đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất: xét về tính chất, hoạt động lao động phải có mục đích (có ý
thức) của con người. Đặc trưng này chỉ ra sự khác biệt giữa hoạt động lao
động của con người và hoạt động mang tính bản năng của con vật. Con vật
duy trì sự tồn tại của mình dựa vào những sản vật có sẵn trong tự nhiên, còn
con người dùng sức lao động của mình để tạo ra những sản phẩm cần thiết
cho sự tồn tại và phát triển của mình cũng như của cộng đồng.
Thứ hai: xét về mục đích, hoạt động đó phải tạo ra sản phẩm nhằm thỏa
mãn nhu cầu nào đó của con người. Đề cập đến điều này là nhằm phân biệt
với những hoạt động có mục đích không nhằm thỏa mãn nhu cầu chính đáng
của con người, không phục vụ cho sự tiến bộ của xã hội. Những hoạt động đó
không thể gọi là hoạt động lao động.
12

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét