
Thứ Hai, 21 tháng 3, 2016
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thưc hiện chính sách tín dụng để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa , hiện đại hóa ở việt nam hiện nay
Bên cạnh đó, cũng vận dụng kết quả nghiên cứu của các tài liệu, sách
báo có liên quan và sử dụng các số liệu, thông tin từ NHNN để làm sáng tỏ
thêm các quan điểm của khóa luận.
6. Đóng góp mới của đề tài
Luận giải một cách có hệ thống, có cơ sở lý luận và thực tiễn việc thực
hiện chính sách tín dụng.
Chỉ rõ vai trò to lớn của việc thực hiện một cách hiệu quả chính sách
tín dụng đối với nền kinh tế trong sự nghiệp CNH, HĐH.
Chỉ ra được những tồn tại của hoạt động tín dụng và đề xuất những
kiến nghị mang tính khả thi cho những quan điểm mới, chính sách cụ thể và
giải pháp xây dựng và vận hành chính sách tín dụng, nâng cao chất lượng hoạt
động tín dụng trong điều kiện hiện nay và những năm tới.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của khóa luận gồm 3 chương, 8 tiết.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG
VÀ CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG
1.1. Tín dụng
1.1.1. Khái niệm tín dụng
Toàn bộ lịch sử xã hội loài người đã cho thấy, vào cuối thời kỳ công xã
nguyên thủy, phân công lao động đã bắt đầu phát triển, chế độ tư hữu xuất
hiện như một đòi hỏi khách quan của sự phát triển xã hội. Sản xuất hàng hóa
là sản xuất ra sản phẩm để trao đổi mua bán chứ không phải chỉ để tự tiêu
dùng. Trong nền kinh tế hàng hóa, sự phát triển của sản xuất xã hội cũng đi từ
đơn giản đến phức tạp. Việc trao đổi hàng hóa có thể tiến hành trực tiếp hàng
đổi hàng, hoặc có thể mua bán thông qua tiền tệ. Chủ nghĩa tư bản văn minh
hơn chế độ phong kiến là nhờ đã phát triển mạnh mẽ kinh tế hàng hóa, đồng
thời cũng phát triển mạnh kinh tế thị trường. Chính trong điều kiện của nền
kinh tế hàng hóa với việc sử dụng tiền tệ đã sinh ra phạm trù tín dụng.
Tín dụng - “khái niệm được sử dụng rộng rãi trong quá trình cho vay,
nhất là các khoản cho vay ngắn hạn,… Việc một người có một khoản tín dụng
đồng nghĩa với việc anh ta có một phương tiện để mua hàng hóa mà không
phải trả ngay, hoặc có thể rút tiền từ một tổ chức cho vay nào đó. Trong môn
kinh tế tiền tệ, khái niệm “tín dụng” thường được dùng để chỉ các loại hình
cho vay có hiệu ứng tiền tệ, tức làm tăng cung ứng tiền tệ (khi sự gia tăng
mức cho vay của ngân hàng dẫn tới sự gia tăng của tiền gửi ngân hàng), hoặc
làm tăng các phương tiện thay thế tiền, chẳng hạn tín dụng thương mại. Mối
quan hệ giữa tiền và tín dụng này là mối quan hệ trực tiếp ở cấp kinh tế vĩ mô,
6
khi người ta phân tích sự thay đổi của cung ứng tiền trên phương diện mở
rộng tín dụng trong nước” [18, tr. 585].
Những quan điểm, tư tưởng cơ bản về lý thuyết tiền tệ, tín dụng, ngân
hàng trong học thuyết kinh tế của C.Mác cũng đã đề cập khá rõ nét theo một
trình tự khoa học, logic về sự ra đời, quá trình tồn tại và vai trò của tín dụng.
Trước hết là tín dụng thương mại gắn với việc thực hiện chức năng phương
tiện thanh toán của tiền tệ thông qua hành vi “mua bán chịu” hàng hóa giữa
những người sản xuất kinh doanh. C.Mác cho rằng “tín dụng thương mại là
cho vay bằng hàng hóa, tức là thực hiện bán hàng trước, trả tiền sau”, cho nên
“trong số tiền phải hoàn trả lại bao gồm cả khoản thù lao về việc sử dụng tư
bản và sự rủi ro có thể xảy ra trước khi đến kỳ hạn trả” [11, tr.491]. Sau đó là
sự ra đời của tín dụng ngân hàng trên cơ sở mở các nghiệp vụ “chiết khấu kỳ
hạn phiếu, tức là chuyển những kỳ phiếu đó thành tiền trước kỳ hạn của
chúng và bằng cách ứng tiền cho vay”[11, tr.488].
Các nhà kinh tế học cổ điển cũng như một số nhà kinh tế thị trường
trước đây, trong các thuyết về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng thường đề cập
nhiều đến các vấn đề về tiền tệ và ngân hàng, chứ chưa đề cập sâu đến vấn đề
tín dụng. Lúc đầu tín dụng chưa được đề cập mổ xẻ một cách độc lập, chỉ khi
chủ nghĩa tư bản phát triển ở giai đoạn cao, nền kinh tế thị trường đạt tới mức
hoàn chỉnh và phát triển, cũng là lúc phạm trù tín dụng được luận giải một
cách đầy đủ. Khi đó, mỗi Nhà nước đều tranh thủ tối đa kết quả của những
nghiên cứu tín dụng, chỉ ra vai trò của tín dụng, từ đó xây dựng cho mình một
chính sách tín dụng phục vụ những mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội.
Có nhiều góc độ xem xét và đưa ra những khái niệm về tín dụng.
Nhưng có thể nói nổi bật và rõ nét là nghiên cứu phạm trù tín dụng trong mối
quan hệ với tiền tệ và sự vận động của giá trị. Tín dụng là những quan hệ vay
và bán chịu hàng hóa và vốn giữa những người sở hữu khác nhau. Tín dụng
7
không phải là những hoạt động vay tiền đơn giản mà là hoạt động vay tiền có
điều kiện, tức là sau một thời gian phải bồi hoàn và thanh toán lợi tức. Tín
dụng là hình thức đặc thù của vận động giá trị, khác với lưu thông hàng hóa
đơn thuần. Vận động giá trị dẫn đến các phương thức tín dụng được thực hiện
thông qua các giai đoạn chuyển giao giá trị và bồi hoàn giá trị. Tiền tệ có vai
trò là hàng hóa ở đây không phải là bán ra mà là cho vay. Cũng có thể là
người vay chỉ có quyền sử dụng tạm thời tiền tệ, quyền sở hữu vẫn thuộc về
người cho vay. Sau một thời gian nhất định, tất yếu tiền tệ đó phải được quay
về trả lại đầy đủ quyền sở hữu và quyền sử dụng cho người cho vay. Khi phát
sinh hành động vay tiền, lúc đó không phải là hành động trao đổi ngang giá,
mà là sự chuyển dịch giá trị đơn phương. Người cho vay khi cho vay không
thu được bất kỳ một sự ngang giá nào, chỉ sau một thời gian nhất định người
đi vay phải trả lại không chỉ số vốn ban đầu mà còn phải trả một khoản lợi tức
nữa, gọi là mức lãi tiền vay. Đó chính là mức giá cho thuê giá trị vốn trong
thời gian nhất định.
“Tín dụng là hình thức vận động của vốn cho vay, nó phản ánh mối quan
hệ kinh tế giữa chủ thể sở hữu và các chủ thể sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong
nền kinh tế trên nguyên tắc hoàn trả có kỳ hạn cả gốc lẫn lợi tức” [1, tr.378].
Tín dụng là một phạm trù kinh tế thuộc về kinh tế hàng hóa, là mối
quan hệ kinh tế phát sinh giữa hai chủ thể, là những người hoặc các quốc gia
khác nhau về khả năng và nhu cầu tiền tệ, có nhu cầu chuyển nhượng giá trị
và chấp nhận giá trị. Tín dụng không chỉ là một hình thức vận động của vốn
tiền tệ (vốn vay) mà còn là một loại quan hệ xã hội, trước hết là lòng tin. Từ
xa xưa, tín dụng dựa trên lòng tin là chủ yếu, đến nay nó được bảo trợ của
pháp luật nhà nước. Song tín dụng không phản ánh mọi mối quan hệ xã hội,
mà chỉ những quan hệ xã hội biểu hiện các mối quan hệ vay mượn. Tín dụng
8
biểu hiện các mối quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình phân phối lại vốn tiền
tệ theo nguyên tắc hoàn trả. Cơ sở vật chất của tín dụng là tiền tệ và hàng hóa.
1.1.2. Bản chất, chức năng và các hình thức tín dụng
Bản chất của tín dụng là: “Tính hoàn trả tiền vay là một trong những
dấu hiệu thể hiện bản chất của tín dụng. Khác với các hàng hóa khác, giá trị
và giá trị sử dụng của nó trong khi bán được chuyển từ người bán sang người
mua, còn vốn được chuyển giao thông qua tín dụng chỉ tạm thời chuyển
nhượng sử dụng. Trong quan hệ tín dụng, chỉ có giá trị sử dụng được chuyển
đến người chủ mới. Tính hoàn trả không tự nó xuất hiện mà dựa vào quá trình
vật chất, vào sự kết thúc tuần hoàn vốn và được bảo đảm bằng hiệu quả cụ thể
sau một chu kỳ sử dụng vốn của người vay cá biệt” [20, tr. 207]. Như vậy,
bản chất của tín dụng được thể hiện là hình thức vận động của vốn tiền tệ
trong xã hội theo nguyên tắc có hoàn trả nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh
phát triển, tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống cho người dân.
Trong nền kinh tế hàng hóa, tín dụng thực hiện 2 chức năng cơ bản:
Một là, tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ trên cơ sở có hoàn trả.
Thực hiện chức năng này, tín dụng thu hút đại bộ phận tiền tệ nhàn rỗi trong
nền kinh tế và phân phối lại vốn đó dưới hình thức cho vay để bổ xung vốn
cho doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu về vốn nhằm phục vụ cho sản xuất
kinh doanh và tiêu dùng. Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ là hai quá
trình thống nhất trong sự vận hành của hệ thống tín dụng. Ở đây sự có mặt
của tín dụng được xem như chiếc cầu nối giữa các nguồn cung - cầu về vốn
tiền tệ trong nền kinh tế. Thông qua chức năng này, tín dụng đã trực tiếp tham
gia điều tiết các nguồn vốn tạm thời từ nơi thừa đến nơi thiếu.
Hai là, phản ánh một cách tổng hợp và kiểm soát các hoạt động của nền
kinh tế. Trong việc thực hiện chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ
nhằm phục vụ yêu cầu tái sản xuất, tín dụng có khả năng phản ánh một cách
9
tổng hợp và nhạy bén tình hình hoạt động của nền kinh tế. Do đó, tín dụng
còn được coi là một trong những công cụ quan trọng của nhà nước để kiểm
soát, thúc đẩy quá trình thực hiện các chiến lược hoạch định phát triển kinh tế.
Mặt khác, tín dụng còn góp phần cho việc tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông,
do tín dụng gắn liền với thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế.
Đồng thời, tín dụng có thể phản ánh và kiểm soát quá trình phân phối sản
phẩm quốc dân trong nền kinh tế.
Hình thức tín dụng có nhiều loại được phân theo những tiêu thức khác
nhau, dựa vào trình độ phát triển và biểu hiện vật chất của tín dụng. Kể từ
hình thức tín dụng đầu tiên là cho vay nặng lãi, đến nay sự phát triển của tín
dụng trong nền kinh tế hàng hóa đã cho ra đời nhiều hình thức tín dụng.
- Căn cứ vào thời hạn tín dụng có: Tín dụng ngắn hạn và tín dụng dài hạn.
- Căn cứ vào đối tượng tín dụng có: Tín dụng lưu động và tín dụng
vốn cố định.
- Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn tín dụng có: Tín dụng sản xuất và
lưu thông hàng hóa, tín dụng tiêu dùng.
- Căn cứ vào chủ thể tín dụng có: Tín dụng thương mại, tín dụng ngân
hàng, tín dụng nhà nước.
- Khi các quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng mở rộng thì hình thức tín
dụng quốc tế cũng ngày càng được phát triển.
1.1.3. Tính tất yếu khách quan của việc hình thành, phát triển tín dụng
Theo sự phát triển của lực lượng sản xuất, xã hội loài người cũng phát
triển theo các hình thái kinh tế khác nhau. Ở xã hội cộng sản nguyên thủy do
lực lượng sản xuất kém phát triển, xã hội không có của dư, sản phẩm do con
người làm ra chưa đủ tích lũy, quan hệ sản xuất dựa trên cơ sở cộng đồng,
mọi sản phẩm đều là của chung, con người hoàn toàn dựa vào nhau, chung
sống, tư hữu chưa ra đời. Do đó chưa xuất hiện quan hệ mua bán, trao đổi.
10

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét