Thứ Ba, 8 tháng 3, 2016

Công giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống cộng đồng giáo dân ở huyện duy tiên, tỉnh hà nam hiện nay

Về tôn giáo: Sự ra đời của đạo Kitô dựa trên sự kế thừa những yếu tố thần học và tín ngƣỡng phong tục tập quán của các dân tộc vùng Trung Cận Đông đặc biệt là đạo Do Thái - một tôn giáo thờ phụng chúa Giêhôva ra đời từ thế kỉ VI Tr.CN. Do Thái là một sứ nhỏ bé ở vùng Trung Cận Đông chỗ tiếp giáp 3 châu Âu - Á - Phi, là giao điểm của nhiều nền văn minh khoảng hơn một ngàn năm trƣớc Công Nguyên, quốc gia Do Thái đƣợc thành lập theo chế độ quân chủ chủ nô, là quốc gia trải qua nhiều lần hƣng thịnh và suy vong. Thời kỳ đầu Công Nguyên trong xã hội Do Thái phát triển nhiều giáo phái cứu thế đạo Công giáo ra đời chủ yếu dựa trên cơ sở thần học Do Thái. Ngay từ năm 61 Công giáo đã có mặt ở Rô ma. Sau nhiều sự ngƣợc đãi cuối cùng Công giáo đã đƣợc mở thông lối vào mọi miền của xã hội La Mã, từ thế giới La Mã Công giáo đã vƣợt sang miền Basbasie và phát triển rộng rãi chủ yếu ở Tây Âu. Ngay từ thời Trung cổ Công giáo đã dừng chân ở xứ sở những ngƣời slavơ. Nếu ở những vùng đã bị Đạo Hồi trinh phục thì đạo này đành lùi bƣớc nhƣng lại không ngừng phái những nhà truyền giáo xuất phát từ cộng đồng Thiên Chúa giáo Tây Âu, đi xa đến tận Châu Á và Châu Mỹ ở thế kỉ XVI, đến Châu Phi vào thế kỉ XIX. Kinh thánh của đạo Do Thái (gồm có 3 phần là Luật pháp, Tiên tri và ghi chép thánh tích) đƣợc đạo Kitô kế thừa gọi là kinh “Cựu Ƣớc” để phân biệt với “Tân Ƣớc” viết về cứu chuộc của Chúa Giêsu đối với loài ngƣời. Những tín điều nêu trong cuốn Kinh thánh gồm: Lịch sử cứu thế của Thiên Chúa, tội tổ tông, mầu nhiệm nƣớc trời, linh hồn và thể xác, thiên đàng và hỏa ngục, thiên thần và ác quỷ. Ngƣời sáng lập ra Công giáo là Chúa Giêsu (là ngôi hai con Thiên Chúa đƣợc sai xuống trần gian để cứu chuộc loài ngƣời khỏi tội lỗi), là hiện thân của Đấng cứu thế đƣợc nhắc nhiều nhất trong Kinh thánh 11 đạo Do Thái. Nội dung giáo lí cơ bản của Công giáo giữ nguyên hoặc phát triển những tín điều của đạo Do Thái. 1.1.2. , luật lệ và lễ nghi Nội dung giáo lý: Giáo lý Công giáo là một hệ thống từ đơn giản đến phức tạp cho các Kitô hữu của học thuyết kinh viện với các quan điểm triết học và thần học siêu hình căn cứ vào Kinh thánh nhƣng phải dựa vào những lời giải thích truyền thống là thẩm quyền của Giáo hội. Công giáo đề cao thuyết thần quyền tuyệt đối đó là mọi việc do Chúa định đoạt và thuyết giáo truyền tập trung, Giáo hoàng là đại diện của Thiên Chúa ở trần gian. Kinh thánh: Là lời Chúa diễn tả bằng ngôn ngữ loài ngƣời ở một thời kì và trong một nền văn hóa rõ rệt. Kinh thánh gồm 73 sách,nhiều sách khác nhau hợp lại. Hiện nay Kinh thánh đƣợc dịch ra hầu hết các tiếng trên thế giới. Kinh thánh chia làm 2 bộ: Tân ƣớc và Cựu ƣớc ban đầu đƣợc truyền miệng về sau đƣợc các thánh Mát-thêu, Lu-ca, Gio-an, Mác-cô ghi lại trong các sách tin mừng, bốn sách tin mừng này quan trọng nhất trong Kinh thánh. - Bộ Cựu ƣớc: Có 46 cuốn gồm 5 cuốn đầu gọi là “Năm quyển sách của Môise”, trong đó nổi tiếng nhất là cuốn đầu gọi là “Sáng thế kỉ” kể chuyện Đức Chúa Trời tạo thành trời đất cùng muôn loài, 14 cuốn tiếp theo là “Các sách về lịch sử” kể chuyện các chi họ Do Thái phiêu bạt khắp vùng Tiểu Á, 7 cuốn tiếp theo là “Các sách văn thơ”, 18 cuốn cuối cùng là “Các sách tiên tri” ghi lời đoán ƣớc của các bậc thông thái. - Bộ Tân ƣớc: Có 27 cuốn gồm 4 cuốn “Phúc âm” nói về cuộc đời Chúa Giêsu, 1 cuốn “Công vụ các sƣ đồ” chuyện kể về các thánh Tông đồ, 22 lá thƣ gửi các giáo đoàn và cuối cùng là sách “khải huyền” tiên đoán về tƣơng lai: Trái đất và muôn loài tận thế, quỷ sa tan bị thua đời đời,… Nội dung giáo lý: Theo giáo lý thì Thiên Chúa có trƣớc đời đời, có trƣớc cả không gian và thời gian. Thiên Chúa có ba ngôi: Ngôi nhất là Cha - ngôi hai là Con - ngôi ba là Thánh Thần. Tuy là 3 ngôi riêng biệt nhƣng cùng một bản thể là thánh, 12 Thiên Chúa 3 ngôi nhƣng đều “Đồng đẳng, đồng vinh, đồng tuyền”. Mỗi ngôi có một chức năng, vai trò khác nhau đối với con ngƣời (ngôi nhất tạo dựng, ngôi hai cứu chuộc, ngôi ba thánh hóa). Thiên Chúa là đấng sáng tạo nên trời đất, muôn loài từ hƣ không trong 6 ngày: - Ngày thứ nhất: Tạo nên sự sáng, tối đặt tên là ngày, đêm. - Ngày thứ hai: Tạo ra không gian gọi là trời - Ngày thứ ba: Tạo ra cây cỏ, đất, nƣớc - Ngày thứ tƣ: Tạo ra tinh tú, mặt trời, mặt trăng - Ngày thứ năm: Tạo ra muôn vật, chim, thú - Ngày thứ sáu: Tạo ra con ngƣời - Ngày thứ bảy: Thiên Chúa nghỉ ngơi Thiên Chúa là đấng thiêng liêng, sáng láng, là chúa trời đất muôn loài, có quyền phép vạn năng, sắp xếp vận hành trật tự trong vũ trụ. Mọi sự tồn tại trong vũ trụ đều do Thiên Chúa tiền định một cách hợp lí và tuyệt đối. Thiên Chúa. Vì vậy, con ngƣời có quan hệ trực tiếp với Thiên Chúa và đƣợc Thiên Chúa thƣơng yêu. Sau này khi con ngƣời sa ngã mối quan hệ trực tiếp này không con nữa mà thông qua đấng cứu chuộc là Chúa Giêsu. Con ngƣời có hai phần: Thể xác (mang tính phàm tục), Linh hồn (mang tính thiêng liêng). Linh hồn do Thiên Chúa truyền vào khi chết còn tồn tại vĩnh cửu, còn thể xác trở về với cát bụi. Con ngƣời có tính phàm tục nên mắc nhiều tội, bản chất tội lỗi của con ngƣời là tính tự do. Khi chết linh hồn không đƣợc vào Thiên đàng ngay mà phải chịu phán xét của Thiên Chúa, nếu có tội thì phải bị đẩy xuống Hỏa ngục cho quỷ dữ hành hạ và lửa thiêu đốt. Con ngƣời từ khi sinh ra đã mắc tội gọi là tội tổ tông do vợ chồng Ađam và Êva gây ra. Con cháu Ađam 13 đông đúc, phạm nhiều tội, đƣợc Thiên Chúa nhiều lần răn dạy qua các tiên tri nhƣng không có kết quả, nên phải bị trừng phạt bằng nạn đại hồng thủy. Chỉ có ông Noê là ngƣời sống đạo đức, thánh thiện đƣợc Thiên Chúa báo trƣớc cho đóng thuyền lớn trở gia đình, vợ con, muông thú mỗi loài một cặp để lƣu giống. Về sau loài ngƣời khởi từ ông Noê vẫn tiếp tục phạm tội, lại còn toan tính xây tháp Ba Ben (Ba Ben nghĩa là lộn xộn) để vào cõi trời chung sống với Thiên Chúa. Vì thế, loài ngƣời mới bị Thiên Chúa trừng phạt bằng cách bất đồng ngôn ngữ để không xây đƣợc tháp. Chúa Giêsu) xuống trần gian để cứu chuộc tội lỗi cho loài ngƣời. : * Mƣời điều răn: Đây là mƣời điều răn mà Chúa truyền cho Môise đƣợc ghi lại trong Kinh Cựu ƣớc, ở “sách thứ 5 của Môise” gọi là phục truyền luật lệ kí. Mƣời điều răn đó là: Thờ phƣợng một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ Giữ ngày chủ nhật Thảo kính cha mẹ Chớ giết ngƣời Chớ làm sự dâm dục ngƣời Chớ lấy của ngƣời Chớ làm chứng dối Chớ muôn vợ chồng ngƣời Chớ tham của ngƣời 14 Mƣời điều răn ấy tóm về hai điều này: Trƣớc kính mến Ngƣời trên hết mọi sự, sau này yêu ngƣời nhƣ mình ta vậy. * Bảy phép bí tích: 1. Phép rửa tội Mục đích là rửa tội tổ tông để đƣợc trở thành Kitô hữu, đƣợc gia nhập hội thánh và đƣợc tái sinh trong ngày phán xét. Đối tƣợng chịu Phép rửa là trẻ sơ sinh và ngƣời trƣởng thành muốn gia nhập vào đạo. Nghi lễ tiến hành Phép rửa là dùng nƣớc lã đã đƣợc làm phép dội lên đầu ngƣời chịu phép và đọc lời kinh nguyện. Ngƣời thực hiện là linh mục. 2. Phép thêm sức Mục đích là giúp cho ngƣời Kitô hữu vững tin và đƣợc an ủi, đƣợc ban thêm sức mạnh. rửa. Nghi lễ tiến hành phép thêm sức là bôi dầu thảo mộc đã làm phép lên trán ngƣời chịu bí tích này và đọc lời kinh nguyện. Ngƣời thực hiện là giám mục, linh mục. 3. Phép giải tội . Ngƣời đƣợc giải tội phải tự xét về hành vi của mình trên cơ sở đối chiếu với lời răn dạy, khuyên bảo của Thiên Chúa và Giáo hội, rồi xƣng tội với linh mục một cách trung thành. Linh mục thay mặt Thiên Chúa xét tha tội hoặc định ra những hình thức sửa chữa đền tội bằng những việc làm nhân đức. Luật quy định mỗi năm ngƣời Kitô phải xƣng tội ít nhất một lần. 4. Phép thánh thể Còn gọi là phép Mình thánh Chúa, là sự tái diễn việc Chúa Giêsu đã hiến dâng thánh thể cho sự nghiệp cứu chuộc. Đây là bí tích “bữa tiệc cuối cùng” của Giêsu với các môn đệ. Ngƣời đã lấy bánh và rƣợu cho các môn đệ với lời biệt ly cuối cùng: “Các con hãy nhận lấy, đây là mình của ta, đây là 15 máu của ta, mình máu ta đổ xuống để chuộc tội lỗi cho con ngƣời". Chủ tế là linh mục, giám mục. Tín đồ sau khi đã xƣng tội và đƣợc giải tội thì đƣợc chịu mình Thánh, đƣợc ăn bánh, uống rƣợu đã làm phép để Thiên Chúa ngự vào trong lòng họ. 5. Phép xức dầu thánh Đƣợc thực hiện đối với bệnh nhân trong cơn nguy ngập để xin Thiên Chúa cứu vớt. Giám mục, linh mục xức dầu thánh lên trên trán hoặc thân thể bệnh nhân và đọc lời nguyện Thiên Chúa. 6. Phép truyền chức thánh Phép này đƣợc thực hiện đối với các Kitô hữu có ơn gọi riêng của Thiên Chúa, trở thành thừa tác viên (giám mục, linh mục, phó tế) thay mặt Thiên Chúa để “chăn dắt” đoàn chiên của Ngƣời. 7. Phép hôn phối Là sự nhìn nhận của Thiên Chúa đối với việc chung sống trọn đời của hai ngƣời nam - nữ đã chịu phép rửa tội. Làm tăng cƣờng quan hệ hôn nhân, gia đình của ngƣời Công giáo. Có bảy phép bí tích thì linh mục đƣợc thực hiện năm phép, còn bí tích thêm sức, truyền chức thánh thuộc quyền của giám mục. Ngoài ra giáo hội Công giáo thời Trung cổ còn đƣa thêm sáu điều răn của Giáo hội và quy định nghĩa vụ của tín đồ. Về sáu điều răn Giáo hội dạy: Thứ nhất: Xem lễ ngày chủ nhật và các ngày lễ trọng Thứ hai: Kiêng việc xác ngày chủ nhật Thứ ba: Xƣng tội mỗi năm ít nhất là một lần Thứ tƣ: Chịu lễ mùa Phục sinh Thứ năm: Giữ chay những ngày Hội thánh quy định Thứ sáu: Kiêng ăn thịt vào những ngày quy định (vào thứ tƣ và thứ sáu hà ). 16

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét