
Thứ Ba, 8 tháng 3, 2016
Công tác quản lý của nhà nước về hoạt động tôn giáo ở việt nam hiện nay
thuật ngữ quản lý đều được các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, nhà quản lý
thống nhất ở hai nội dung:
Thứ nhất, Quản lý là sự tác động mang tính tổ chức, tính mục đích của
chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý.
Thứ hai, Mục tiêu quản lý là nhằm làm cho đối tượng quản lý hoạt
động (vận hành) phù hợp với ý chí của chủ thể quản lý đã định ra từ trước.
Nói đến quản lý trước hết đó là sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của
chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý. Sự tác động này không phải mang tính
đơn lẻ, tự phát mà nó mang tính tổ chức, tính mục đích rõ ràng. Mục đích mà
chủ thể quản lý đặt ra là hướng tới đối tượng quản lý hoạt động phù hợp với ý
chí của mình.
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý lên
đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã đặt ra từ trước.
* Khái niệm quản lý nhà nước
Hoạt động quản lý xuất hiện từ rất lâu và bao gồm nhiều loại, trong đó
quản lý xã hội là một dạng quản lý đặc biệt. Quản lý xã hội xuất hiện từ khi
lao động của con người bắt đầu được xã hội hóa. Quản lý xã hội là sự tác
động có ý thức để chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành
vi hoạt động của con người phù hợp với ý chí của nhà quản lý và quy luật
khách quan. Quản lý xã hội do nhiều chủ thể tiến hành. Khi nhà nước xuất
hiện, những công việc quản lý xã hội quan trọng nhất do nhà nước đảm nhiệm
- quản lý nhà nước xuất hiện. Hiện nay khái niệm quản lý nhà nước được hiểu
theo hai nghĩa:
Nghĩa rộng: Là dạng quản lý xã hội của Nhà nước, được sử dụng quyền
lực nhà nước để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con
người do tất cả các cơ quan nhà nước (Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp) tiến
hành để thực hiện các chức năng của nhà nước đối với xã hội.
11
Nghĩa hẹp: Là dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước với
chức năng chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của cơ quan
trong hệ thống hành pháp (Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp).
* Khái niệm tôn giáo
Tôn giáo là một hiện tượng lịch sử, xã hội đã xuất hiện từ lâu (Phật
giáo khoảng thế kỷ thứ VI TCN, Công giáo thế kỷ I TCN,…).
Khái niệm về tôn giáo là vấn đề gây nhiều tranh cãi đối với các nhà
khoa học xã hội. Vấn đề được đặt ra, định nghĩa tôn giáo làm thế nào để có
thể bao hàm tất cả những thay đổi của các hiện tượng tôn giáo, thậm chí kể cả
những hình thái mới của hành động tín ngưỡng.
Các nhà nghiên cứu tôn giáo đều ít nhiều đồng ý tôn giáo có liên quan
đến cái linh thiêng, cái siêu tự nhiên, cái siêu nghiệm trong thế giới đối lập
với cái trần tục, cái duy nghiệm. Nhưng cái linh thiêng, cái siêu tự nhiên, siêu
nghiệm có thực sự là như vậy không khi là đối tượng của sự mổ xẻ khoa học.
Tôn giáo là đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học xã hội (triết
học, tâm lý học, lịch sử, dân tộc học, xã hội học,…) nhiều bộ môn đặt ra vấn
đề phải định nghĩa tôn giáo và trong lịch sử bộ môn xã hội học tôn giáo, đại
bộ phận những nhà xã hội học đều đã cố gắng đưa ra định nghĩa về tôn giáo.
Chủ nghĩa Mác - Lênin coi tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội duy
tâm thần bí nhưng chủ nghĩa Mác - Lênin cũng thừa nhận tính chất, vai trò
của tôn giáo, thừa nhận tôn giáo còn tồn tại lâu dài đồng thời chỉ rõ nguồn gốc
của tôn giáo chính là xã hội, là tồn tại xã hội, là cuộc sống của con người lại
được phản ánh một cách hoang đường kỳ dị.
Theo Mác, tôn giáo là một sản phẩm xã hội, nó được quy định và quyết
định bởi lịch sử vì cơ sở của quá trình lịch sử là sự phát triển của các điều
kiện vật chất của đời sống xã hội nên nguồn phát sinh của biểu tượng tôn giáo
cũng ở ngay trong điều kiện sinh sống của con người. Những lực lượng trần
tục thống trị con người, đè nặng lên ý thức của họ một cách hoang đường đã
12
sinh ra những biểu tượng siêu nhiên. Những hình ảnh và biểu tượng tôn giáo
trong ý thức của con người chính là tồn tại được phản ánh.
Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen đã viết: “Tất cả mọi tôn
giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con người của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là
sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những
lực lượng siêu trần thế” [12, tr.437].
Ở Việt Nam hiện nay, vẫn phổ biến một quan điểm về tôn giáo theo
loại hình tôn giáo của giáo hội, vẫn phân biệt tôn giáo và tín ngưỡng dân gian
như là hai cấp độ phát triển, như nhận xét của một tác giả nghiên cứu tôn
giáo: “Hiện nay, ở nước ta và một số nước dường như chỉ coi các hình thức
tôn giáo nảy sinh ra từ xã hội có giai cấp, hay đúng hơn nữa là phải có tổ
chức, giáo lí, giáo luật, mới được coi là tôn giáo” [22, tr.29]. Thêm vào đó là
những khó khăn về khoảng cách giữa những định nghĩa về tôn giáo có tính
cách học thuật và thực tiễn thi hành chính sách tôn giáo. Trong thời gian gần
đây, những nhà nghiên cứu tôn giáo ở Việt Nam cũng bàn luận về định nghĩa
tôn giáo bằng cách phê phán hay tán đồng định nghĩa của các tác giả nước
ngoài, như định nghĩa của Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn: “… đối tượng chung
nhất của tôn giáo, Tây cũng như Đông, là thế giới siêu nhiên vô hình được
chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách hư ảo giữa con
người và thế giới đó nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế, cũng như thế
giới bên kia trong những hoàn cảnh lịch sử, địa lý khác nhau của từng cộng
đồng tôn giáo hay xã hội khác nhau” [22, tr.23]. Hay trong sách: “Lý luận về
tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam” có nêu: Tôn giáo là niềm tin vào
các lực lượng siêu tự nhiên cũng như thế giới bên kia. Niềm tin đó được biểu
hiện rất đa dạng, tùy thuộc vào những thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lý, văn
hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận hành bằng
những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau. Theo Từ điển Tiếng Việt:
13
“Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội gồm những quan niệm, dựa trên cơ sở tin
và sùng bái những lực lượng siêu tự nhiên, cho rằng có những lực lượng siêu
tự nhiên định đoạt tất cả, con người phải phục tùng và tôn thờ” [24, tr.1011].
Như vậy, hiện nay ở Việt Nam, khái niệm tôn giáo chưa được giải thích
cụ thể, tuy nhiên tùy cách tiếp cận mà đưa ra cách hiểu khác nhau về tôn giáo.
Về phương diện quản lý nhà nước, tôn giáo được hiểu là một cộng đồng
người có chung niềm tin vào thế lực siêu nhiên, huyền bí, có hệ thống giáo lý
hay một giáo chủ, có một kết cấu là tổ chức giáo hội.
* Khái niệm hoạt động tôn giáo
Hoạt động tôn giáo là việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ
nghi, quản lý tổ chức của tôn giáo. Truyền bá giáo lý, giáo luật (còn gọi là
truyền đạo) là việc tuyên truyền những lý lẽ về sự ra đời, về luật lệ của tôn
giáo. Thông qua hoạt động truyền đạo, niềm tin tôn giáo của tín đồ được củng
cố, luật lệ trong tôn giáo được tín đồ thực hiện. Đối với những người chưa
phải là tín đồ, hoạt động truyền đạo giúp họ hiểu, tin và theo tôn giáo. Thông
qua hoạt động truyền đạo để phát triển lực lượng tín đồ. Thực hành giáo luật,
lễ nghi (còn gọi là hành đạo) là hoạt động của tín đồ, nhà tu hành, chức sắc
tôn giáo thể hiện sự tuân thủ giáo luật, thỏa mãn đức tin tôn giáo của cá nhân
tôn giáo hay của cộng đồng tín đồ. Còn hoạt động quản lý tổ chức của tôn
giáo nhằm thực hiện quy định của giáo luật, thực hiện hiến chương, điều lệ
của tổ chức tôn giáo, đảm bảo duy trì trật tự hoạt động trong tổ chức tôn giáo.
Trong các hoạt động này, việc phân định ranh giới giữa hoạt động truyền đạo
với hoạt động hành đạo cũng chỉ tương đối, có không ít hoạt động hành đạo
có hoạt động truyền đạo.
* Khái niệm quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
Từ các khái niệm quản lý, quản lý nhà nước, tôn giáo, hoạt động tôn
giáo, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo theo hai nghĩa sau:
14
Nghĩa rộng: Là quá trình dùng quyền lực nhà nước (quyền Lập pháp,
Hành pháp, Tư pháp) của các cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật
để tác động điều chỉnh, hướng dẫn các quá trình tôn giáo và hành vi hoạt động
tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt được
mục tiêu cụ thể của chủ thể quản lý.
Nghĩa hẹp: Là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện
pháp luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ và Ủy
ban nhân dân các cấp) để điều chỉnh các quá trình tôn giáo và mọi hành vi
hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo quy định của
pháp luật.
1.1.2. Yêu cầu khách quan của công tác quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo ở nước ta hiện nay
Trong quá trình quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo có
một số quan điểm cho rằng hoạt động tôn giáo là hoạt động mang tính chất
nội bộ của tôn giáo, nhà nước không cần phải quản lý, điều chỉnh, nếu nhà
nước quản lý, điều chỉnh sẽ không còn tự do tôn giáo.
Thực tiễn hiện nay cho thấy, ở bất cứ quốc gia nào, nhà nước nào, ở
đâu có hoạt động tôn giáo thì đều có sự can thiệp, điều chỉnh của nhà nước.
Tuy nhiên, sự điều chỉnh của nhà nước ở mức độ nào có sự khác nhau, tùy
thuộc vào nhà nước, nếu thấy là cần thiết để bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi
ích của xã hội, giữ gìn được trật tự xã hội : Yêu cầu quản lý nhà nước đối với
các hoạt động tôn giáo trong lịch sử hình thành, tồn tại và phát triển, ảnh
hưởng của tôn giáo không chỉ xuất phát từ ý chí của nhà nước mà còn xuất
phát từ thực tế khách quan về lịch sử, hiện tại và tương lai. Tôn giáo là thực
thể của xã hội, tồn tại khách quan, lâu dài cùng với sự phát triển của xã hội.
Tôn giáo ra đời từ những tiền đề về kinh tế - xã hội, từ các nguồn gốc tâm lý,
nhận thức, trong đó nguồn gốc về kinh tế - xã hội giữ vai trò quyết định. Khi
15
những nguồn gốc làm phát sinh tôn giáo chưa giải quyết được, tôn giáo vẫn
còn tồn tại. Thừa nhận thực tế khách quan này, nhà nước cần tôn trọng và
đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn rất sâu sắc trong quần chúng
nhân dân. Tuy nhiên, trong lịch sử cũng như thực tiễn cho thấy, quá trình tồn
tại và phát triển tôn giáo có ảnh hưởng khá sâu sắc đến nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Tôn giáo tham gia thực hiện nhiều
chức năng đối với xã hội như chức năng thế giới quan (chức năng nhận thức
thế giới), chức năng liên kết cộng đồng, chức năng điều chỉnh hành vi của con
người,… Thực hiện các chức năng này, tôn giáo vừa mang những ưu điểm:
đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người, đoàn kết những con người bị áp bức
trong cuộc đấu tranh chống lại những bất công của xã hội, khuyên răn con
người hướng thiện, làm việc tốt, bỏ điều ác,…; nhưng đồng thời cũng mang
nhiều hạn chế, tiêu cực: hạn chế trong việc nhận thức thế giới khách quan, bị
lợi dụng vì mục đích chính trị đen tối,… Để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của nhân dân, phát huy những mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực,
Nhà nước cần thiết phải quản lý các hoạt động này, đảm bảo cho các hoạt
động tôn giáo diễn ra phù hợp với sự phát triển chung của xã hội.
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, công tác quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo không những là cần thiết mà còn cần phải
tăng cường. Yêu cầu tăng cường quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn
giáo xuất phát từ những lý do sau:
Thứ nhất, quá trình đổi mới ở nước ta đang diễn ra sâu rộng trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tôn giáo.
Trong lĩnh vực tôn giáo, từ khi thành lập nước ta đến nay mặc dù quan
điểm tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán, song
những năm gần đây, quan điểm đó ngày càng mang tính minh bạch rõ ràng và
chứa đựng nội dung mới. Các Nghị quyết của Đảng về công tác tôn giáo đều
16

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét