Thứ Hai, 7 tháng 3, 2016

Nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn lỗ tấn

tính cách thực ra, khái niệm nhân vật thường được quan niệm với một phạm vi rộng lớn hơn nhiều. Đó không chỉ là con người, những con người có tên hoặc không tên, được khắc họa sâu đậm hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm mà còn là sự vật, loài vật khác ít nhiều mang bóng dáng, tính cách con người Cũng có khi không phải là những con người, sự vật cụ thể mà chỉ là một hiện tượng về con người hoặc liên quan đến con người được thể hiện trong tác phẩm. Trong Từ điển thuật ngữ văn học Nxb Giáo dục, 2006, Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) đã định nghĩa: nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn học có thể có tên riêng (Tấm, Cám, chị Dậu) cũng có thể không có tên riêng như: thằng bán tơ, một mụ nào trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Khái niệm nhân vật văn học có khi được sử dụng như một ẩn dụ, không chỉ một con người cụ thể nào cả mà chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm. Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất nó với con người có thật trong đời sống. Nó có chức năng cơ bản là khái quát tính cách của con người. Đồng thời, nhân vật văn học còn thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn về con người. Và từ những góc độ khác nhau có thể chia nhân vật thành nhiều kiểu loại khác nhau: nhân vật chính - phụ, nhân vật chính diện - phản diện, nhân vật tính cách - chức năng Dù cách này hay cách khác, khi định nghĩa nhân vật văn học vẫn cơ bản gặp nhau ở chỗ: nhân vật văn học là đối tượng mà văn học miêu tả, thể hiện bằng những phương tiện văn học. Thứ hai là những con người, những đồ vật, con vật, sự vật hiện tượng mang linh hồn con người, là hình ảnh của con người. Thứ ba: nhân vật văn học là đối tượng mang tính ước lệ và có cách điệu so với đời sống hiện thực bởi nó đã được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của nhà văn. Đối với mỗi nhân vật văn học thì tính cách được coi là đặc điểm quan trọng nhất, là hạt nhân và là nội dung của mọi nhân vật văn học. Bên cạnh đó, chức năng đầu tiên trọng yếu của nhân vật là làm phương tiện để nhà văn khái quát được hiện thực: Nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào một thế giới riêng của đời sống trong một thời kỳ nhất định Nhân vật còn là yếu tố cơ bản nhất trong tác phẩm văn học, tiêu điểm để bộc lộ chủ đề và tư tưởng chủ đề và đến lượt mình nó lại được các yếu tố có tính hình thức tập trung khắc họa. Vì thế, khi xây dựng nhân vật, Lỗ Tấn đặc biệt chú ý đến nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ của nhân vật trong tác phẩm của mình. Ngôn ngữ nhân vật được nhà văn sử dụng như một công cụ để gửi gắm tư tưởng, ý đồ muốn truyền đạt. Nhà văn họ Chu này đã xem tác phẩm văn học như là một vũ khí hữu hiệu đồng thời lòng ưu phẫn của nhà văn cũng được bộc lộ rõ nét trước xã hội đương thời - một xã hội hơn 95% dân số là nông dân đang trong hành trình vật vã tìm đường. Có lẽ vì thế mà các nhân vật, nói đúng hơn là ngôn ngữ của các nhân vật trong các truyện ngắn hai tập Gào thét và Bàng hoàng được nhà văn chú trọng xây dựng. Chẳng hạn: trong truyện AQ chính truyện, Lỗ Tấn đã xây dựng nhân vật AQ rất sống động. Ngôn ngữ của AQ chân thật, là ngôn ngữ hằng ngày mang tính khẩu ngữ, qua đó nhà văn đã khái quát tính cách của nhân vật AQ: một con người lạc hậu, mê muội dưới chế độ cũ nhưng luôn cho mình là văn minh, là nhất thiên hạ. Đó cũng chính là tình trạng của nhân dân Trung Quốc trong giai đoạn chuyển mình Người Trung Quốc không dám nhìn thẳng vào mọi mặt, dùng dối trá và lừa phỉnh để tạo cho mình một lối thoát kỳ diệu và tự cho đó là con đường đúng (Trương mắt nhìn - tạp văn 57). 1.1.2. Khái niệm ngôn ngữ nhân vật văn học Theo Từ điển thuật ngữ văn học, 2006, Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên): Ngôn ngữ nhân vật văn học là lời nói của nhân vật trong các tác phẩm thuộc loại hình tự sự và kịch. Ngôn ngữ nhân vật là một trong các phương tiện quan trọng được nhà văn sử dụng nhằm thể hiện cuộc sống và cá tính nhân vật. Mỗi nhân vật có một ngôn ngữ mang đặc điểm riêng, có lời ăn tiếng nói riêng. Mặt khác, ngôn ngữ ấy lại phản ánh được đặc điểm ngôn ngữ của một tầng lớp, lớp người nhất định gần gũi về nghề nghiệp, tâm lý, giai cấp, trình độ văn hóa Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học. Vì vậy, văn học được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ. M.Gorơki cũng đã khẳng định: Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học. Xét về mặt nào đó, nhà văn là nghệ sĩ của từ. Sứ mệnh cao cả của nhà văn đối với ngôn ngữ là ở chỗ qua những tác phẩm mẫu mực của mình, một mặt bảo vệ sự trong sáng, mặt khác phải làm giàu có, phong phú hơn tiếng mẹ đẻ. Nhà văn phải nắm chắc đến mức am tường các phương diện ngữ pháp, ngữ âm, ngữ nghĩa chính tả, phải làm chủ kho từ vựng cơ bản, đồng thời biết cách khai thác và vận dụng đúng lúc, đúng chỗ những nguồn ngôn ngữ đặc biệt: tiếng địa phương, tiếng lóng, tiếng nước ngoài, khẩu ngữ và những từ mới xuất hiện. Bên cạnh đó, người nghệ sĩ phải triệt để khai thác các phương thức chuyển nghĩa, các biện pháp tu từ, biết cách dùng từ cũ với nhiều nghĩa mới. Từ đó, tài năng nghệ thuật, cá tính sáng tạo và phong cách của người nghệ sĩ được bộc lộ rõ nét. Đặc biệt, tùy theo các thể loại văn học khác nhau mà ngôn ngữ của nhân vật văn học lại có những đặc điểm và biểu hiện khác nhau: 1.1.2.1. Ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm kịch Tác phẩm kịch sử dụng ngôn ngữ các nhân vật được cấu trúc qua hệ thống đối thoại và độc thoại trong đó đối thoại là chủ yếu. Nó gần gũi với tiếng nói thông thường của nhân dân, không mang tính cách điệu. Bên cạnh đó, ngôn ngữ kịch còn gắn liền với cử chỉ, động tác của nhân vật thể hiện rõ cá tính, tính cách của nhân vật. 1.1.2.2. Ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm trữ tình Đây là ngôn ngữ được tổ chức trên cơ sở nhịp điệu, hết sức cô đọng, hàm súc và gợi cảm. Ngôn ngữ trong các tác phẩm trữ tình gắn liền với cá tính, tính cách sáng tác của tác giả, đồng thời ngôn ngữ nhân vật trữ tình còn rất giàu hình ảnh được hiện lên qua lời văn nghệ thuật của tác giả. 1.1.2.3. Ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm tự sự Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng không thể thiếu được trong tác phẩm tự sự vì toàn bộ cốt truyện, nhân vật được dệt lên qua lời kể đó. Nó là phương tiện biểu hiện thái độ, tình cảm, tư tưởng sự đánh giá của tác giả đối với cuộc sống thực tế. Thông qua ngôn ngữ ta có thể hiểu được ý đồ của nhà văn là gì? Hiện thực chỉ có một nhưng ở mỗi nhà văn nó được phản ánh khác nhau bởi hiện thực ấy được triết quang khúc xạ qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ, bằng những ngôn ngữ sắc sảo, tinh tế. Ngôn ngữ trong tác phẩm tự sự là ngôn ngữ đa dạng, ngôn ngữ của nhiều tính cách. Sự khác biệt giữa ngôn ngữ kịch với ngôn ngữ tác phẩm tự sự là ở chỗ, trong tác phẩm tự sự ngôn ngữ người kể chuyện giữ vai trò quyết định đối với toàn bộ cấu trúc ngôn ngữ của tác phẩm. Nếu trong tác phẩm trữ tình, ngôn ngữ trữ tình là tiếng hát tâm hồn, là cách trữ tình của người nghệ sĩ. Đó chính là thứ ngôn ngữ diễn tả những gì phức tạp của thế giới nội tâm, ngôn ngữ giàu nhạc điệu có tính tạo hình cao, có khả năng cụ thể hóa những trạng thái mơ hồ nhất mà không tuân theo lôgic tự nhiên của đời sống. Thì ngôn ngữ trong tác phẩm tự sự gần giống với ngôn ngữ đời sống hàng ngày. ở tác phẩm tự sự gồm có hai ngôn ngữ: ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả. Qua ngôn ngữ nhân vật bộc lộ tính cách nhân vật, qua ngôn ngữ tác giả, cá tính sáng tạo của nhà văn được khẳng định. Đọc truyện ngắn Lỗ Tấn, chúng ta bắt gặp một tài năng nghệ thuật độc đáo kết tinh bởi nhiều yếu tố: nghệ thuật xây dựng hình tượng điển hình, đề tài phong phú, ngòi bút châm biếm với việc vận dụng linh hoạt nhiều thủ pháp như khoa trương, phóng đại, lối phản ngữ, cách chơi chữ đồng thời nhà văn đã sử dụng ngôn ngữ nhân vật rất sinh động và tinh tế. Bằng ngôn ngữ, Lỗ Tấn đã cho bạn đọc thấy được thành phần xã hội, dấu hiệu chủng loại, lớp người của các nhân vật trong tác phẩm: giai cấp nông dân hay tầng lớp trí thức. Mỗi nhân vật lại có một ngôn ngữ riêng. Điều này được quy định trong mối quan hệ với hoàn cảnh lịch sử xã hội Trung Quốc. Ví như Cố hương là một truyện ngắn trữ tình của Lỗ Tấn. Nhân vật trung tâm trong thiên truyện ngắn là Nhuận Thổ. Nhuận Thổ là một nông dân, được nhà văn miêu tả trong hai thời điểm quá khứ và hiện tại. Qua ngôn ngữ của nhân vật Nhuận Thổ đối thoại với nhân vật tôi cho ta thấy sự thay đổi của cậu bé Nhuận Thổ trong quá khứ - hồn nhiên, thơ ngây, trong sáng và Nhuận Thổ hiện tại - một nông dân tàn tạ về thể xác, tha hóa về tinh thần. Bên cạnh đó, tác giả còn xây dựng nhân vật thím Hai Dương qua ngôn ngữ và hành động thể hiện rõ sự tham lam vụ lợi đã góp phần làm nổi bật thêm nhân vật trung tâm là Nhuận Thổ. Lỗ Tấn đã lý giải sự tha hóa của nhân vật là do xã hội. Dưới chế độ xã hội cũ ở Trung Quốc thì sự tha hóa của Nhuận Thổ, của con người không phải là cá biệt mà là phổ biến. Tóm lại, nhân vật là linh hồn của tác phẩm, là yếu tố thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Trong đó, tìm hiểu ngôn ngữ nhân vật là một phương tiện hữu ích, quan trọng cho phép ta hiểu rõ hơn về nhân vật trong tác phẩm. Khi sáng tác, Lỗ Tấn luôn đưa vào tác phẩm của mình những con người bình thường trong xã hội đó là: thím Tường Lâm, chị Tư Thiền, AQ, Nhuận Thổ, Khổng ất Kỉ, cô ái với mục đích lôi hết bệnh tật của họ ra để chạy chữa. Họ là người nông dân, người trí thức có cuộc sống cực khổ, và số phận đau thương. Ngôn ngữ của họ được Lỗ Tấn xây dựng rất thành công không chỉ thể hiện được tính cách mà còn thể hiện nội tâm, tâm hồn của nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn của Lỗ Tấn được biểu hiện ở: ngôn ngữ đối thoại của nhân vật và ngôn ngữ người kể chuyện. 1.2. Nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ đối thoại của nhân vật trong truyện ngắn của Lỗ Tấn Văn học là một yếu tố nảy sinh từ văn hóa, là tấm gương phản chiếu mọi biến thái của đời sống xã hội và là sản phẩm sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ. Dù muốn hay không các nhà văn cũng phải đưa vào tác phẩm của mình những mảng đời sống hiện thực của thời đại mà mình đang sống. Bởi cái đẹp vốn nảy sinh từ cuộc sống mà con người không thể giũ bỏ tất cả những cái đang diễn ra quanh mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát biểu nhân dịp đến thăm triển lãm hội họa Hà Nội, 1946: Người trần lên tiên cũng có lẽ thích thật. Nhưng mãi cái đẹp không thay đổi rồi cũng thấy chán nản, nhạt nhẽo và mới biết rằng: muốn tìm thấy sự thay đổi, sự ham mê thật, phải trở về với cuộc sống sinh hoạt thực tại của con người. Trước hiện thực cuộc sống mỗi nhà văn, mỗi nghệ sĩ lại có những phong cách thể hiện riêng bằng những ngôn ngữ riêng khi sáng tạo. Lỗ Tấn sống và chứng kiến xã hội Trung Quốc trong hai thập kỷ: cuối thế kỷ XIX và hơn ba thập kỷ đầu thế kỷ XX. Khi đó xã hội Trung Quốc đang chuyển mình từ chế độ phong kiến sang hình thức: xã hội chủ nghĩa. Đây là giai đoạn chuyển giao vĩ đại trong lịch sử Trung Hoa khi mà cái cũ đã suy tàn nhưng còn đeo đẳng, cái mới xuất hiện nhưng còn non yếu, cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới trở nên căng thẳng. Cả dân tộc Trung Hoa đang vật vã trong hành trình tìm đường. Khi đó các sự kiện lịch sử trọng đại liên tiếp diễn ra: cách mạng Tân Hợi (1911), cách mạng tháng Mười Nga (1917), không khí sục sôi của phong trào Ngũ Tứ (1919), sự ra đời của Đảng cộng sản Trung Quốc (1921) đã ảnh hưởng rất đậm nét trong các khuynh hướng sáng tác của các nhà văn Trung Hoa trong đó có ảnh hưởng lớn đến Lỗ Tấn. Là một nhà văn giàu lòng yêu nước, thương dân, Lỗ Tấn luôn đau xót trước cảnh đất nước rối ren, nhân dân cực khổ. Theo Lỗ Tấn, xã hội Trung Quốc là một xã hội bệnh tật, ông chỉ là người thầy thuốc bắt mạch tìm bệnh cho mọi người để đánh thức họ dậy sau những ngày chìm trong u tối, mê muội. Ông đã từng thổ lộ: Tôi mổ xẻ người khác nhưng phần nhiều là mổ xẻ chính mình. Vậy nên chủ đề nổi bật trong những tác phẩm của Lỗ Tấn: căn bệnh tinh thần cản trở con đường giải phóng dân tộc mà ông gọi là bệnh căn tính quốc dân. Để làm nổi bật chủ đề đó, Lỗ Tấn đã tìm cho mình một lối văn hết sức cô đọng, tránh dài dòng lôi thôi, không tả gió trăng, đối thoại quyết không kéo dài đó là thể loại truyện ngắn. Tuy nhiên, một cây đại thụ tỏa bóng gần như cả thế kỷ thì thông thường cũng rất đa sắc, đa diện, đa hương. Tìm hiểu ngôn ngữ nhân vật chính là một phương tiện để hiểu rõ hơn sự đa sắc, đa diện, đa hương đó của nhà văn. Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật trong truyện ngắn Lỗ Tấn xuất hiện rất ít cho ta thấy truyện ngắn của Lỗ Tấn có rất ít nhân vật, ngoài nhân vật chính chỉ có một vài nhân vật phụ khác. Ta có thể thống kê:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét