
Thứ Hai, 7 tháng 3, 2016
Nghệ thuật xây dựng nhân vật lịch sử trong truyện ngắn nguyễn huy thiệp
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Kim Liên
nội dung
Chương 1
Quan niệm về nghệ thuật xây dựng nhân vật
1.1. quan niệm về nhân vật.
1.1.1.Khái niệm nhân vật.
Về mặt thuật ngữ:
Nhìn một cách rộng nhất, nhân vật là khái niệm không chỉ được dùng
trong văn chương mà còn ở nhiều lĩnh vực khác. Theo bộ Từ điển tiếng Việt của
Viện ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên, NXB Đà Nẵng, Hà Nội - Đà Nẵng,
2002 thì : nhân vật là khái niệm mang hai nghĩa: nghĩa thứ nhất, đó là đối tượng
(thường là con người ) được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm văn học. Thứ hai, đó
là người có một vai trò nhất định trong xã hội. Tức là, thuật ngữ nhân vật được
dùng phổ biến ở nhiều mặt cả đời sống nghệ thuật, đời sống xã hội - chính trị lẫn đời
sống sinh hoạt hằng ngày Nhưng trong phạm vi nghiên cứu của khoá luận, chúng
tôi chỉ đề cập đến khái niệm nhân vật theo nghĩa thứ nhất mà bộ từ điển tiếng
Việt định nghĩa như vừa trích ở trên tức là nhân vật trong tác phẩm văn chương .
Với ý nghĩa như thế của khái niệm nhân vật, ta sẽ trở lại xuất xứ của thuật
ngữ này.
Trong tiếng Hy Lạp cổ, nhân vật(đọc là persona) lúc đầu mang ý nghĩa
chỉ cái mặt nạ của diễn viên trên sân khấu. Theo thời gian, chúng ta đã sử dụng
thuật ngữ này với tần số nhiều nhất, thường xuyên nhất để chỉ đối tượng mà văn học
miêu tả và thể hiện.
Cuốn Lí luận văn học, NXB GD, H, 2004 do tác giả Phương Lựu, chủ biên,
có định nghĩa khá kĩ về nhân vật văn học: Nói đến nhân vật văn học là nói đến con
người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm, bằng phương tiện văn học. Đó là
những nhân vật có tên như Tấm, Cám, Thạch Sanh(). Đó là những nhân vật không
tên như thằng bán tơ, một mụ nào trong Truyện Kiều (). Đó là những con vật
Lớp K29H - Khoa Ngữ văn
11
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Kim Liên
trong truyện cổ tích, đồng thoại, thần thoại, bao gồm cả quái vật lẫn thần linh, ma
qủi, những con vật mang nội dung và ý nghĩa con người(). Khái niệm nhân vật có
khi chỉ được sử dụng một cách ẩn dụ, không chỉ một con người cụ thể nào mà chỉ
một hiện tượng nổi bật trong tác phẩm(). Nhưng chủ yếu là hình tượng con người
trong tác phẩm(). Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật ước lệ, có những
dấu hiệu để ta nhận ra(6-tr277,278).
Một cách định nghĩa khác về nhân vật trong cuốn Lí luận văn học.NXB
GD,H,1993 do giáo sư Hà Minh Đức chủ biên: Nhân vật trong văn học là một hiện
tượng nghệ thuật mang tính ước lệ, đó không phải là sự sao chụp đầy đủ mọi chi tiết
biểu hiện của con người mà chỉ là sự thể hiện con người qua những đặc điểm điển
hình về tiểu sử, nghề nghiệp, tính cách v.vVà cần chú ý thêm một điều: thực ra
khái niệm nhân vật thường được quan niệm với một phạm vi rộng lớn hơn nhiều, đó
không chỉ là con người, những con người có tên hoặc không tên, được khắc họa sâu
đậm hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm, mà còn có thể là sự vật, loài vật
khác ít nhiều mang bóng dáng, tính cách con người,(). Cũng có khi đó không phải
là những con người, sự vật cụ thể, mà chỉ là một hiện tượng về con người hoặc có
liên quan tới con người, được thể hiện nổi bật trong tác phẩm(2_tr102).
Khái niệm Nhân vật văn học còn được định nghĩa trong cuốn Từ điển thuật
ngữ văn họcNXBQG, H, 2000 của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi với nội dung cơ bản giống với định nghĩa trong cuốn Lí luận văn học đã
nêu: Nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học.
Nhân vật văn học có thể có tên riêng (Tấm, Cám, chị Dậu, anh Pha), cũng có thể
không có tên riêng(). Khái niệm nhân vật văn học có khi được sử dụng như một
ẩn dụ, không chỉ một con người cụ thể nào cả, mà chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó
trong tác phẩm(). Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ,
không thể đồng nhất nó với con người có thật trong đời sống(4-tr202)
Như vậy, các nhà văn, nhà nghiên cứu, lý luận văn học, bằng cách này hay
cách khác khi định nghĩa nhân vật văn học vẫn cơ bản gặp nhau ở những nội hàm
không thể thiếu của khái niệm này: Thứ nhất, đó phải là đối tượng mà văn học miêu
tả, thể hiện bằng những phương tiện văn học. Thứ hai đó là những con người, hoặc
Lớp K29H - Khoa Ngữ văn
12
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Kim Liên
những con vật, đồ vật, sự vật hiện tượng mang linh hồn con người là hình ảnh ẩn dụ
của con người. Thứ ba, đó là đối tượng mang tính ước lệ và có cách điệu so với đời
sống hiện thực bởi nó đã được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của nhà văn.
Đối với mỗi nhân vật văn học thì tính cách được coi là đặc điểm quan trọng
nhất, là nội dung của mọi nhân vật văn học. Đôtxtôievxki cũng khẳng định: Đối với
nhà văn, toàn bộ vấn đề là ở tính cách . Tính cách, với ý nghĩa rất lớn như vậy nên
trước kia một số giáo trình Nga đã gọi nhân vật là tính cách. ở đây cần hiểu tính
cách là phẩm chất xã hội lịch sử của con người thể hiện qua các đặc điểm cá nhân,
gắn liền với phẩm chất tâm sinh lý của họ, tính cách cũng là nhân vật nhưng là
nhân vật được thể hiện với một chất lượng tư tưởng và nghệ thuật cao hơn, tuy chưa
đạt đến mức độ là những điển hình (2-tr105). Và tính cách tự nó cũng bao hàm
những thuộc tính như có nét cụ thể, độc đáo của một con người cá biệt nhưng lại
mang cả những nét chung, tiêu biểu cho nhiều người khác ở một mức độ nhất định,
đồng thời có một quá trình phát triển hợp với logíc khách quan của đời sống.
Như vậy, nhân vật có hạt nhân là tính cách. Trong tác phẩm văn chương có
nhân vật được khắc hoạ tính cách nhiều hay ít nhưng cũng có nhân vật không được
khắc hoạ tính cách.
1.1.2.Vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn chương.
Ta biết rằng nhân vật là hình ảnh về con người, khi tính cách của nhân vật
được nhà văn xây dựng ở một mức độ nào đó, nhân vật sẽ trở thành hình tượng về
con người, và cao hơn, nếu tính cách được khắc hoạ ở những nét điển hình thì nhân
vật sẽ trở thành điển hình với con người. Mà theo Biêlinxki: nhà triết học tư duy
bằng phép tam đoạn luận, còn nhà thơ tư duy bằng hình tượng cụ thể của một bức
tranh. Nói rộng ra tức là văn học phản ánh cuộc sống bằng hình tượng bằng những
nhân vật cụ thể. Do đó, vai trò chức năng đầu tiên trọng yếu nhất của nhân vật là
làm phương tiện để nhà văn khái quát hiện thực. Văn học không thể thiếu được nhân
vật bởi chỉ có qua nhân vật nhà văn mới thể hiện được nhận thức của mình về xã hội,
về con người với những đặc điểm về số phận tính cách của nó. Nhân vật chính là
người dẫn dắt người đọc vào một thế giới riêng của đời sống trong một thời kì lịch
sử nhất định (2-tr126).
Lớp K29H - Khoa Ngữ văn
13
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Kim Liên
Tính cách của nhân vật mang vai trò hết sức quan trọng đối với cả nội dung
và hình thức của tác phẩm văn học. Về nội dung: nhân vật với tính cách của nó, là
phương tiện để thể hiện tư tưởng của tác phẩm, nó có nhiệm vụ cụ thể hoá sự thực
hiện chủ đề tư tưởng tác phẩm, tức thông qua sự vận động và mối liên hệ giữa các
tính cách, người đọc sẽ đi đến một sự khái quát hoá về nhận thức tư tưởng. Về hình
thức: nhân vật với tính cách của nó quyết định phần lớn các yếu tố của hình thức
như kết cấu, các biện pháp thể hiện nghệ thuật, lời nói nghệ thuậtVề luận điểm
này Hêghen cũng đã từng nói: tính cách là điểm trung tâm của mối quan hệ giữa
nội dung và hình thức. Ta cũng cần lưu ý rằng: tính cách nhân vật mang tính lịch
sử, nghĩa là với mỗi một thời đại lịch sử các tính cách được tôn vinh hay coi nhẹ là
khác nhau, có thể trong thời này tính cách này được tôn sùng nhưng thời sau thì
không.
Đó là những vai trò chức năng cơ bản của nhân vật trong tác phẩm văn
chương.
1.1.3. Các loại nhân vật văn học cơ bản.
Nhân vật văn học là một thế giới vô cùng đa dạng. Nhân vật càng độc đáo thì
càng hầu như không có sự lặp lại. Cho nên bộ mặt nhân vật là rất phong phú. Song
nhìn tổng thể trong tác phẩm văn học các nhà nghiên cứu, lý luận, nghiên cứu văn
học đã chia thế giới nhân vật văn học thành các kiểu loại khác nhau để dễ tiếp nhận,
dễ phân tích, đánh giá theo những tiêu chí như: nội dung cấu trúc, chức năng của
nhân vật.
Thứ nhất, dựa trên vai trò của nhân vật trong kết cấu và cốt truyện của tác
phẩm có nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâmnhân vật chính đóng vai
trò chủ chốt, xuất hiện nhiều, và liên quan đến các sự kiện chủ yếu trong tác phẩm,
là cơ sở để tác giả triển khai đề tài cơ bản của mình. Trong các nhân vật chính lại
nổi lên nhân vật trung tâm xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phẩm về mặt ý nghĩa, đó
là nơi quy tụ các mối mâu thuẫn của tác phẩm(6- tr283). Còn lại là các nhân vật
phụ mang tình tiết sự kiện, tư tưởng có tính chất phụ trợ bổ sung.
Thứ hai, dựa trên mối quan hệ với lý tưởng xã hội của nhà văn lại có thể nói
tới nhân vật chính diện (nhân vật tích cực) và nhân vật phản diện (nhân vật tiêu cực).
Lớp K29H - Khoa Ngữ văn
14
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Kim Liên
Hai kiểu nhân vật này cũng mang tính lịch sử, trong đó nhân vật chính diện mang lý
tưởng, quan điểm tư tưởng, đạo đức tốt đẹp của tác giả và của thời đại, được nhà văn
khẳng định, đề cao, còn nhân vật phản diện thì ngược lại mang những phẩm chất
xấu xa trái với lý tưởng và đạo đức, đáng lên án và phủ định.
Ngoài hai cách chia thường thấy như thế về nhân vật và dựa trên cấu trúc về
nhân vật người ta có thể nói tới các kiểu nhân vật như: nhân vật chức năng, nhân vật
loại hình, nhân vật tính cách và nhân vật tư tưởng. Trong phạm vi có hạn của khoá
luận chúng tôi không bàn sâu về những loại nhân vật này.
1.2. Quan niệm về nghệ thuật xây dựng nhân vật.
Như đã trình bày ở trên, nhân vật ngoài chức năng quan trọng là phương tiện
để nhà văn gửi gắm ý tưởng nghệ thuật của mình còn có vai trò quyết định tới phần
lớn những yếu tố hình thức của tác phẩm văn chương. Vì thế, có thể nói: Qua mỗi
yếu tố của hình thức tác phẩm, ta sẽ thấy đươc cụ thể nghệ thuật xây dựng nhân vật
của nhà văn. Cả ba yếu tố: kết cấu, sự tổng hợp các biện pháp thể hiện nghệ thuật và
lời nói nghệ thuật đều tham gia vào xây dựng nhân vật ở mặt này hay mặt kia. Do
vậy, việc tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật thực chất là xem xét, tìm hiểu ba
khía cạnh đó của hình thức.
1.2.1.Kết cấu.
Kết cấu, theo quan niệm của nhóm tác giả của cuốn Lý luận văn học, Nxb
GD, H,2004 là toàn bộ tổ chức tác phẩm phục tùng đặc trưng nghệ thuật và nhiệm
vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà văn tự đặt ra cho mình. Kết cấu tác phẩm không bao
giờ tách rời nội dung cuộc sống và tư tưởng tác phẩm.(6-tr295)
Trong bài: Tính nghệ thuật, một đối tượng nghiên cứu riêng và một cách
tiếp cận riêng, DĐVNVN, số tháng 3+4, năm 2000, tác giả Nắng Mai đã có một
quan niệm cụ thể hơn về kết cấu : Kết cấu là việc sắp xếp, lắp ráp chẳng những
kiến trúc trong chiều sâu, mà còn bố cục, bài trí ở bên ngoài, nhằm tổng hợp những
tương quan giữa các yếu tố của tác phẩm gắn kết lại mọi mảnh vụn rời rạc trong số
đó sao cho thành sinh thể toàn vẹn. Kết cấu là yếu tố không thể hiện trực tiếp trên
câu chữ, mà nó là chất kết dính liên kết toàn bộ các chi tiết rời rạc thành dòng thống
nhất. Trong tác phẩm, kết cấu có vai trò của người đạo diễn thay mặt tác giả tạo nên
Lớp K29H - Khoa Ngữ văn
15
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Kim Liên
hệ thống các hình tượng như là kết quả của sự thống nhất hoàn thiện các yếu tố
hình thức nghệ thuật
Từ các quan niệm khá giống nhau ở những nét cơ bản của kết cấu như thế
(đều là sự liên kết, lắp ráp, tổ chức các yếu tố hình thức cũng như tưởng tác phẩm),
theo chúng tôi việc xem xét, tìm hiểu nội dung của kết cấu tác phẩm có thể tiến
hành ở những phương diện sau:
Kết cấu, trước hết thể hiện ở việc người nghệ sỹ trong tác phẩm của mình gắn
nhân vật này với nhân vật kia, tạo ra quan hệ qua lại giữa chúng. Từ đó các nhân vật
sẽ tự bộc lộ bản chất xã hội - thẩm mỹ của mình.
Kết cấu còn là việc nhà văn gắn nhân vật vào các hoàn cảnh môi trường cụ
thể, đặc biệt là những tình huống kịch tính, có vấn đề cho nhân vật hoạt động. Qua
đó, nhân vật sẽ thể hiện phẩm chất, nhân cách, cá tính riêng cũng như chiều hướng
con đường đời của nó.
Kết cấu đồng thời còn là việc người nghệ sỹ gắn kết thành dòng thống nhất
những điều xảy ra trước với những điều xảy ra sau trong cuộc đời mỗi nhân vật.
Điều này có tác dụng làm nổi bật vấn đề trung tâm, nội dung tư tưởng chủ yếu của
tác phẩm, cùng chiều hướng con đường đời của các loại nhân vật .
1.2.2. Các biện pháp thể hiện nghệ thuật.
Để xây dựng được các nhân vật trong tác phẩm văn chương một cách sinh
động, hấp dẫn, nhà văn phải mượn đến các thủ pháp nghệ thuật phong phú, sao cho
nhân vật hiện lên trước mắt người đọc càng cụ thể, càng rõ nét, thông qua càng
nhiều giác quan càng tốt. Hệ thống này được coi là thường xuyên và đầy đủ nhất.
Các biện pháp thể hiện nhân vật bao gồm bảy yếu tố: biện pháp tả, biện pháp kể,
biện pháp để nhân vật đối thoại, độc thoại, tâm tình, bàn luận - triết lý, biện pháp để
nhân vật vào những hoàn cảnh xung đột - kịch tính. Việc sử dụng những biện pháp
thể hiện nghệ thuật này gắn liền với việc xây dựng hình tượng nhân vật toàn vẹn và
sinh động(20-tr26)
1.2.2.1 Biện pháp tả.
Đây là một hoạt động sáng tạo của nhà văn, đòi hỏi nhà văn phải khéo kết
hợp các danh từ với các tính từ, động từ, khéo kết nối các kiểu câu sao cho hiệu quả
Lớp K29H - Khoa Ngữ văn
16

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét