Thứ Ba, 8 tháng 3, 2016

Thực trạng và giải pháp xây dựng, phát triển giai cấp công nhân việt nam hiện nay

Khóa luận tốt nghiệp Gv: Chu Thị Diệp phẩm của chế độ tư hữu. Chế độ tư hữu muốn duy trì sự tồn tại vĩnh viễn của bản thân nó, thì nó phải duy trì sự tồn tại vĩnh viễn của mặt đối lập với nó là giai cấp vô sản. Chế độ tìm được sự thỏa mãn trong bản thân mình là mặt khẳng định của sự đối lập của một chỉnh thể thống nhất - chế độ tư hữu. Cả hai đều là sản phẩm của chế độ ấy. Xu hướng phát triển của giai cấp vô sản là đi tới sự thủ tiêu của bản thân mình với tư cách là giai cấp vô sản, do đó, tiêu diệt cả mặt đối lập với nó là chế độ tư hữu – đang chi phối và làm cho nó thành giai cấp tư sản. Mác và Ăngghen viết: “vấn đề là ở chỗ giai cấp vô sản thực ra là gì, và phù hợp với sự tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử” [20, tr.56, 348 - 354]. Đến tác phẩm “Tình cảnh của giai cấp lao động Anh”. Ph.Ăngghen khẳng định: Anh là nước điển hình của sự phát triển của giai cấp vô sản. Giai cấp công nhân Anh là kết quả chủ yếu của cuộc cách mạng công nghiệp Anh. Lịch sử giai cấp công nhân Anh bắt đầu từ nửa sau thế kỷ XVIII. Và công nghiệp nhỏ đã nảy sinh giai cấp tư sản, công nghiệp lớn đã làm nảy sinh giai cấp công nhân. Công nhân công nghiệp là hạt nhân của phong trào công nhân. Họ là những người nhận thức được rõ ràng nhất những lợi ích của bản thân mình.Vì trình độ văn hóa của các loại công nhân liên quan trực tiếp với mối quan hệ của họ với công nghiệp [20, tr.56, 348 - 354]. Trong tác phẩm “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản”, Ph.Ăngghen đã định nghĩa giai cấp vô sản như sau: “giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng việc bán lao động của mình, chứ không phải sống bằng lợi nhuận của bất cứ số tư bản nào, đó là một giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, sống và chết, toàn bộ sự sống còn của họ đều phụ thuộc vào số cầu về lao động, tức là vào tình hình chuyển biến tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào những sự biến động của cuộc cạnh tranh không gì ngăn cản nổi. Nói tóm lại, giai cấp vô sản hay giai cấp những người vô sản là giai cấp lao động trong thế kỷ XIX … Giai cấp là do cuộc cách mạng sản sinh ra” [21, tr.456 - 457]. Sv: Nguyễn Thị Hoài 11 Khóa luận tốt nghiệp Gv: Chu Thị Diệp Thật vậy, giai cấp vô sản ra đời là một quá trình lâu dài, từ tầng lớp vô sản đầu tiên đến vô sản công trường thủ công và giai cấp vô sản hiện đại. Vào các thế kỷ XIV và XV, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa bắt đầu hình thành ở một số nước châu Âu, quá trình tích lũy tư bản chử nghĩa diễn ra làm xuất hiện lao động làm thuê tư bản chủ nghĩa. Lớp người lao động này từng bước bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt chủ yếu, trở thành người tự do bán sức lao động để kiếm sống . Đó chính là những người vô sản đầu tiên. Từ cuối thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, cùng với sự ra đời và phát triển kiểu tổ chức sản xuất công trường thủ công, giai cấp vô sản công trường thủ công hình thành, song phần lớn họ còn mang nặng tư tưởng, tâm lý người sản xuất nhỏ, chưa bị cột chặt vào bộ máy sản xuất tư bản chủ nghĩa. Cho nên, vô sản công trường thủ công chưa trở thành một lực lượng ổn định, độc lập trong xã hội. Cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX tạo ra bước nhảy vọt trong sự phát triển kinh tế, chính trị - xã hội, đánh dấu bước chuyển căn bản của chủ nghĩa tư bản sang giai đoạn đại công xưởng, giai cấp vô sản hiện đại ra đời và nhanh chóng trở thành một lực lượng xã hội to lớn. Như vậy sự ra đời của giai cấp vô sản gắn liền với nền sản xuất đại công nghiệp và chỉ trở thành một giai cấp ổn định khi sản xuất đại công nghiệp đã thay thế về cơ bản nền sản xuất thủ công. Đúng như Ph.Ăngghen đã viết: “đại công nghiệp kéo người công nhân công trường thủ công ra khỏi những điều kiện gia trưởng của họ, họ mất hết mọi tài sản cuối cùng của họ và chỉ khi đó họ mới trở thành người vô sản giai cấp vô sản là do cuộc cách mạng công nghiệp sinh ra”. Lần đầu tiên C.Mác và Ph.Ăngghen đã trình bày khái niệm giai cấp vô sản tương đối đầy đủ trên các phương diện trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và có thể khái quát lại với một số điểm chủ yếu là: Sv: Nguyễn Thị Hoài 12 Khóa luận tốt nghiệp Gv: Chu Thị Diệp Thứ nhất, về nguồn gốc kinh tế, giai cấp vô sản ra đời gắn với đại công nghiệp, là sản phẩm của chính bản thân nền đại công nghiệp, nền sản xuất xã hội hóa ngày càng cao. Thứ hai, về nguồn gốc xã hội, giai cấp vô sản được tuyển mộ từ tất cả các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Thứ ba, những đặc trưng chủ yếu của giai cấp vô sản hiện đại bao gồm: không có tư liệu sản xuất; về lợi ích cơ bản, đối lập trực tiếp với giai cấp tư sản; giai cấp vô sản là hiện thân của phương thức sản xuất tiên tiến; có tính quốc tế, tinh thần quốc tế vô sản, tính tiên phong, tinh thần cách mạng triệt để, đoàn kết giai cấp, tính tổ chức kỷ luật cao. Thứ tư, bản chất quốc tế của giai cấp vô sản được quy định bởi quá trình quốc tế hóa sản xuất công nghiệp…; đồng thời giai câp vô sản có bản sắc dân tộc, gắn với mỗi dân tộc cụ thể, trở thành “giai cấp dân tộc” và chịu trách nhiệm trước hết với dân tộc mình. Thứ năm, quá trình đấu tranh giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản dẫn đến sự phân hóa trong giai cấp thống trị. Một bộ phận nhỏ của giai cấp này - những nhà tư tưởng tư sản tiến bộ đã từ bỏ cuộc sống và thành phần giai cấp xuất thân, vươn lên nhận thức được về mặt lý luận toàn bộ quá trình vận động lịch sử, tách khỏi giai cấp xuất thân, đi theo giai cấp vô sản, làm cho giai cấp vô sản ngày càng nhận thức rõ được sức mạnh và sử mệnh lịch sử của mình. Thứ sáu, xu hướng phát triển, giai cấp công nhân không ngừng tăng lên về số lượng và chất lượng cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp. Cần nhấn mạnh rằng khái niệm về giai cấp vô sản đã được C.Mác và Ph.Ăngghen rút ra qua sự phân tích một cách sâu sắc từ địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp đó dưới chế độ tư bản trong những năm nửa đầu thế kỷ XIX. Những kết luận ấy cũng đã được thực tiễn lịch sử, xã hội đương thời chứng minh là đúng đắn và khoa học. Sv: Nguyễn Thị Hoài 13 Khóa luận tốt nghiệp Gv: Chu Thị Diệp Những đặc trưng cơ bản của giai cấp vô sản dưới chế độ tư bản chủ nghĩa mà C.Mác và Ph.Ănghen nêu lên trên đã được V.I.Lênin tiếp tục làm rõ, phát triển và khẳng định trong tác phẩm của mình. 1.1.2. Quan điểm của Lênin Từ thực tiễn lịch sử thế kỷ XX, V.I.Lênin chỉ rõ giai cấp vô sản là giai cấp thống trị về chính trị, giai cấp lãnh đạo xã hội trong cuộc đấu tranh chống lại ách thống trị của chủ nghĩa tư bản, trong sự nghiệp sáng tạo ra một xã hội mới, trong cuộc đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn các giai cấp. Ông đã phân biệt giai cấp vô sản với tầng lớp tri thức. “người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử khác nhau về quan hệ của họ (thông thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoạn này thì có thể chiếm đoạt lao động của những tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định” [19, tr.17-18]. Như vậy, trí thức không phải là một giai cấp xã hội vì nói chung trí thức không có hệ tư tưởng riêng và không có quan hệ độc lập với tư liệu sản xuất. Họ lao động bằng trí óc, độc lập, sáng tạo dựa trên cơ sở một trình độ văn hóa cơ bản cần thiết. Đó cũng là một đặc trưng nổi bật của trí thức mà từ đó có thể phân biệt họ với giai cấp công nhân. Trước hoàn cảnh của nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười, V.I Lênin mặt bên trong và “tâm lý vô sản” của người công nhân làm cơ sở để phân biệt giữa giai cấp vô sản hiện đại với tầng lớp vô sản lưu manh vốn là sản phẩm của quá trình đổ vỡ và thối nát của xã hội cũ. Về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: có thể diễn đạt khái quát nhất những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về sứ mệnh lịch sử Sv: Nguyễn Thị Hoài 14 Khóa luận tốt nghiệp Gv: Chu Thị Diệp của giai cấp công nhân là tiến hành sản xuất hiện đại và đấu tranh cách mạng để giải phóng con người. Sứ mệnh lịch sử đó được biểu hiện qua những nội dung cơ bản nhất sau đây: Một là, gắn quá trình tổ chức, phát triển sản xuất xã hội với trình độ khoa học - kỹ thuật ngày càng hiện đại. Đây là nội dung thường xuyên và trực tiếp nhất. Tách rời sản xuất hiện đại, giai cấp công nhân không còn sứ mệnh lịch sử với những nội dung tiếp theo. Đó là một nhận thức khoa học rút ra từ thực tế lịch sử hình thành, phát triển giai cấp công nhân. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ bắt đầu với nội dung “giành chính quyền” mà trái lại có nội dung rộng lớn hơn kể cả trước khi giành chính quyền. Từ nội dung sản xuất hiện đại và đấu tranh cách mạng mới dẫn đến nội dung “giành chính quyền”. Hai là, thông qua đảng tiên phong của mình giai cấp công nhân lãnh đạo và tổ chức quá trình giành chính quyền về tay mình và nhân dân lao động, xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa (và các chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột), xóa bỏ giai cấp tư sản (và cá giai cấp bóc lột), giải tán chế độ nhà nước của chế độ cũ, thành lập chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Ba là, giai cấp công nhân thông qua đảng lãnh đạo của mình, tổ chức thực hiện quá trình củng cố, bảo vệ chính quyền, bảo vệ đất nước và đồng thời xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, con người, để từng bước hình thành xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa trên thực tế ở mỗi nước và trên toàn cầu. Đây là nội dung cơ bản quyết định nhất trong sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Vì thế, chủ nghĩa Mác - Lênin luận giải một cách khoa học rằng: Đó là những quá trình cải biến cách mạng căn bản, toàn diện, triệt để trên phạm vi quốc gia, quốc tế. Đó là một nội dung mới mẻ và rất phức tạp, do đó là một nội dung được thực hiện từng bước, lâu dài, với yeu cầu ngày càng cao đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và nhất là đối với đảng cộng sản, với nhà nước cả về sức lực, trí tuệ lẫn bản lĩnh và lập trường chính trị, nhân cách và phong cách của mình. Nếu giai cấp công nhân coi nhẹ vấn đề này, mắc bệnh “tả” khuynh hay “hữu” khuynh, “đốt cháy giai đoạn”, giản đơn, chủ quan, duy ý chí thì thời kỳ quá độ và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản sẽ khó khăn và kéo dài hơn. Sv: Nguyễn Thị Hoài 15 Khóa luận tốt nghiệp Gv: Chu Thị Diệp Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân do những điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội khách quan quy định từ khi nó hình thành và phát triển trong chủ nghĩa tư bản. Sứ mệnh đó không hề xuất phát từ mong muốn chủ quan của giai cấp công nhân và đảng của nó; cũng không hề do bất kì tài trí của cá nhân nào “sáng tạo” ra! Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân mang tính qui luật khách quan trong sự phát triển tất yếu của nhân loại, như chủ nghĩa Mác - Lênin đã luận chứng một cách khoa học, xuất phát từ thực tiễn rằng: đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản, và sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau. Trước hết, về những điều kiện kinh tế - kĩ thuật, thì nền công nghiệp ngày càng hiện đại đã quyết định nhiều đặc điểm của giai cấp công nhân và từ những đặc điểm vốn có đó mà giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có những sứ mệnh lịch sử đã nêu trên. Chính quá trình lao động sản xuất gắn với các qui trình kĩ thuật hiện đại đã làm cho giai cấp công nhân có những vị thế kinh tế - xã hội và những đặc điểm riêng mà không giai cấp nào, tầng lớp nào có được (tính tổ chức kĩ thuật cao do các yêu cầu kĩ thuật của sản xuất trực tiếp mang tính liên hợp, đồng bộ; tính xã hội, quốc tế hóa cao…). Ngay cả khi so sánh với tầng lớp trí thức thì trí thức có thể có ưu trội hơn giai cấp công nhân vì trí tuệ khoa học do đặc trưng lao động trí óc của họ. Nhưng với tất cả các đặc trưng như giai cấp công nhân thì trí thức không thể có. Vả lại, tri thức cũng không bao giờ đóng vai trò quyết định nhất trong sản xuất vật chất đối với sự tồn tại, phát triển xã hội; trí thức càng không đại diện cho một phương thức sản xuất riêng để có một đảng chính trị riêng có thể lãnh đạo cách mạng. Nói như vậy không có nghĩa là tách rời, đối lập tri thức với công nhân. Trái lại, tri thức bao giờ cũng gắn với giai cấp, nhất là giai cấp thống trị xã hội và nền tảng sản xuất càng hiện đại bao nhiêu thì giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức càng gắn bó với nhau hơn ngay trong nền sản xuất đó. Thực tế đã chứng minh, ngày nay, giai cấp công nhân nhiều nước đã có tầng lớp trí thức của mình và bản thân giai cấp công nhân cũng ngày càng có trí tuệ cao hơn. Sv: Nguyễn Thị Hoài 16

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét