
Thứ Tư, 9 tháng 3, 2016
Nghiên cứu thành phần hóa học của cây cỏ ngọt = (STEVIA REBAUDIANA (BERTONI) HEMSLEY )
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
cây cỏ ngọt ở Việt Nam nhằm đặt cơ sở khoa học cho việc sử dụng chúng một
cách thích hợp, hiệu quả có ý nghĩa thực tiễn đối với sự phát triển của nền y
học Việt Nam hiện đại dựa trên các phương thuốc cổ truyền.
Do đó tôi đã chọn đề tài cho khoá luận tốt nghiệp là:
“Nghiên cứu thành phần hoá học của cây cỏ ngọt (Stevia rebaudiana
(Bertoni) Hemsley)”.
Luận văn này tập trung nghiên cứu thành phần hoá học từ lá cây cỏ
ngọt bao gồm những nội dung chính là:
1. Sử dụng các phương pháp chiết và sắc ký để phân lập được các
stevioside sạch từ cây cỏ ngọt (Stevia rebaudiana (Bertoni) Hemsley).
2. Sử dụng các phương pháp hoá lý kết hợp để xác định cấu trúc hoá học
của các hợp chất đã phân lập được.
Nguyễn Duy Công
K31C- Khoa Hoá học
11
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
Chương 1: Tổng quan
1.1. Đặc điểm, tính vị và công dụng của cây cỏ ngọt.
1.1.1. Thực vật học.[7]
Tên khoa học: Stevia rebaudiana (Bertoni) Hemsley.
Hä: Cóc (Asteraceae).
Hình 1.1: Cây cỏ ngọt và hoa của cây cỏ ngọt.
Cây thảo nhỏ, sống nhiều năm, cao 0,5 – 0,6 m và có khi cao tới 1 m.
Thân cứng mọc thẳng, có rãnh dọc và nhiều lông mịn, ít phân nhánh.
Lá mọc đối, hình mác hoặc bầu dục, gốc thuôn, đầu tù hoặc hơi nhọn dài
5 -7 cm, rộng 1 - 1,5 cm, có 3 gân, 4 – 6 đôi răng nhọn ở phần nửa về phía
đầu lá, hai mặt có lông trắng mịn, nhấm lá thấy có vị ngọt rất đậm, cuống lá
rất ngắn.
Hoa lưỡng tính, tụ họp thành đầu màu trắng ở ngọn.
Quả bế, không có mào lông, hạt không có nội nhũ.
Mùa hoa: tháng 5 - 9
Nguyễn Duy Công
K31C- Khoa Hoá học
12
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
1.1.2. Phân bố, sinh thái. [7]
Chi Stevia Cav. Không có một đại diện nào ở vùng Châu á. Cỏ ngọt đang
được trồng phổ biến ở Việt Nam hiện nay, được nhập nội từ một nước Nam
Mỹ (nguồn gốc ở Paraguay) năm 1988.
Cỏ ngọt là cây ưa ẩm và ưa sáng, có thể chịu bóng hoặc ưa bóng vào thời
kỳ cây con. Vốn là cây ở vùng nhiệt đới, cỏ ngọt trồng ở Việt Nam sinh
trưởng và phát triển tốt vào vụ xuân - hè. Về mùa đông, cây có hiện tượng
rụng lá và hơi tàn lụi. Cây ra hoa, quả nhiều hàng năm. Tuy nhiên, người ta
thường áp dụng cách nhân giống bằng cắm cành.
1.1.3. Bộ phận dùng. [7]
Phần trên mặt đất của cây cỏ ngọt. Thu hái lúc cây xum xuê.
1.1.4. Tác dụng dược lý. [7]
1.1.4.1. Tác dụng hạ đường huyết: thành phần steviosid trong lá cây
cỏ ngọt có tác dụng làm đường huyết giảm rõ rệt ở thỏ, chuột cống trắng và
bệnh nhân mắc bệnh đái tháo đường.
1.1.4.2. Tác dụng giãn mạch: Steviosid có tác dụng làm giãn tĩnh
mạch toàn thân rõ rệt.
1.1.4.3. Tác dụng trên thận và huyết áp: thành phần steviosid trong lá
cây cỏ ngọt có tác dụng làm tăng lưu lượng huyết tương qua thận (RPF), tăng
tốc độ lọc cầu thận (GFR), hạ huyết áp, tăng bài niệu và tăng thải trừ natri.
1.1.4.4. Tác dụng tránh thai: Nghiên cứu của PLANAS (năm 1968)
đã thông báo , cho chuột cống trắng cái và đực uống nước có 5% cao cỏ ngọt
thấy có tác dụng ngừa thai. Nhưng trong những năm 70, bốn nhóm thực
nghiệm độc lập, không xác nhận tác dụng này.
Nguyễn Duy Công
K31C- Khoa Hoá học
13
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
1.1.4.5. Tác dụng kháng khuẩn: Cao lá cỏ ngọt có tác dụng đối với
Pseudomonas aeruginosa và Proteus vulgaris. Chưa thấy tài liệu công bố về
tác dụng trên các vi khuẩn Streptococcus inutans, Lactobacillus plantarum và
Lactobacillus casei là những vi khuẩn có liên quan đến quá trình sún răng ở
trẻ em, vì hiện nay có dùng steviosid thay thế đường trong chế biến bánh kẹo.
1.1.4.6. Liều dùng an toàn ở người: Nồng độ steviosid trong một số
nước giải khát ở Nhật Bản là 0,005 – 0,007%. Nếu một ngày uống 1 lit thì
lượng steviosid đưa vào cơ thể là 0,05 – 0,07g tương ứng với khoảng 1g lá cỏ
ngọt. Điều đó có thể được chấp nhận vì là liều an toàn, đã được Nhà nước
Nhật cho phép.
1.1.4.7. Độc tính cấp: Cho chuột uống steviosid với liều 2g/kg không
thấy có chuột chết và cũng không thấy có biểu hiện độc sau 2 tuần theo dõi.
1.1.4.8. Độc tính bán cấp: Cho chuột cống trắng ăn với liều dùng
hàng ngày 0,5g/kg trong 56 ngày. các thông số theo dõi gồm cân nặng, các chỉ
tiêu huyết học, các chỉ tiêu hoá sinh và xét nghiệm tổ chức học gan đều bình
thường.
1.1.4.9. Độc tính trên thận:
a. Thí nghiệm trên chuột cống trắng, liều cao steviosid có thể gây độc
với thận, làm tăng urê và creatinin huyết thanh.
b. Tiêm tĩnh mạch cho chuột cống trắng, liều 0,4; 0,8; 1,2; 1,6g/kg rồi
theo dõi độ thanh thải của một số chất có so sánh với lô đối chứng, thấy từ
liều 0,8g/kg trở lên:
- Độ thanh thải inulin không thay đổi, chứng tỏ chức năng lọc cầu
thận không bị ảnh hưởng.
Nguyễn Duy Công
K31C- Khoa Hoá học
14
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
- Độ thanh thải của glucose tăng, chứng tỏ chức năng tái hấp thu của
ống lượn gần bị suy giảm, một phần glucose không được tái hấp thu và đã bị
thải trừ qua nước tiểu.
- Độ thanh thải steviosid cao hơn độ thanh thải inulin, chứng tỏ
steviosid còn bị thải trừ qua niêm mạc của ống thận.
- Ngoài ra, steviosid cong gây bài niệu tăng thải natri niệu và làm tăng
độ thanh thải của paraaminohippuric.
c. Tiêm dưới da cho chuột cống trắng với liều 1,5g/kg, kết quả thấy:
- Những thay đổi giống thí nghiệm trên là tăng nồng độ urê và
creatinin trong huyết thanh, thấy glucose trong nước tiểu.
- Ngoài ra về tổ chức bệnh học, thấy có biến đổi hình thái ở tế bào
niêm mạc ống lượn gần. Những tổn thương này là do hoạt động của 2 enzym
phosphatase kiềm và gama-glutamyl-transpeptidase tăng lên. Những enzym
này khu trú chủ yếu ở điểm bàn chải của tế bào ống lượn gần.
1.1.4.10. Khả năng gây đột biến:
a. Nhiều thí nghiệm nghiên cứu khả năng gây đột biến trên các chủng
Salmonella typhimurium TA 98, TA 100, TA 1535, TA 1538 và TM 677,
hoặc trên chủng Escherichia coli WP2 đều xác định cao cỏ ngọt, steviosid và
steviol là aglycon của steviosid không gây đột biến.
b. Có nghiên cứu cho biết một số chất chuyển hoá của steviosid lại có
thể gây đột biến. Mặc dù steviosid không bị chuyển hoá trong cơ thể và thải
trừ nguyên vẹn qua nước tiểu. Song người ta lo ngại một số tạp khuẩn vùng
màng tràng có thể phân giải được steviosid.
1.1.5. Tính vị, công năng. [7]
Nguyễn Duy Công
K31C- Khoa Hoá học
15
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
Cỏ ngọt có vị ngọt rất đậm, có ích cho người đái tháo đường và người
béo phì, thuốc ít độc.
1.1.6. Công dụng. [7]
1.1.6.1. Chữa đái tháo đường: Cỏ ngọt và steviosid có vị ngọt sẽ làm
giảm nhu cầu chất đường và chất bột của người bệnh, vì thế sẽ làm giảm
đường huyết. Liều dùng theo thử nghiệm ở Braxin là mỗi lần 0,25g steviosid
(hoặc 2,5g lá cỏ ngọt), ngày 4 lần. Uống nhiều ngày.
1.1.6.2. Chữa béo phì: Cỏ ngọt và steviosid có vị ngọt sẽ làm giảm
nhu cầu chất đường và chất bột của cơ thể, nên cũng có tác dụng chữa béo
phì. Liều dùng 0,5 – 1g steviosid chia ra 3 – 4 lần trong ngày. Uống nhiều
ngày.
1.1.6.3. Lá cỏ ngọt hoặc steviosid thường dùng làm chất điều vị cho
các loại trà thuốc, trà túi lọc: Tỷ lệ lá cỏ ngọt hoặc steviosid trong đó thường
thấp. Tại Việt Nam, cũng đã có một số chế phẩm trà thuốc có cỏ ngọt như:
- Trà actisô - stevia.
- Trà sâm quy – stevia có sâm khu 5, tam thất, đương quy, thục địa,
táo, long nhã, ngũ gia bì và cỏ ngọt.
- Trà nhân trần, thảo quyết minh, cỏ ngọt.
- Trà túi lọc Sotevin có dừa cạn, hoa cúc, hoa hoè và cỏ ngọt.
1.1.6.4. Chữa cao huyết áp: Hàng ngày uống trà sotevin.
1.1.6.5. Dùng thay thế đường săcharose: Trong công nghiệp thực
phẩm để làm chất điều vị cho bánh mứt kẹo, nước giải khát.
1.2. Thành phần hoá học và hoạt tính sinh học của cây cỏ ngọt.
1.2.1. Giới thiệu chung
Nguyễn Duy Công
K31C- Khoa Hoá học
16

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét