Chủ Nhật, 6 tháng 3, 2016

Ngôn từ trong tiểu thuyết nỗi buồn chiến tranh của bảo ninh

Nguyễn Thị Phương Thảo – K32A Ngữ văn Nguyễn Thế Lịch trong bài viết Về các tính chất của ngôn ngữ nghệ thuật (TCNN số 4 – 1998) cho rằng: Ngôn ngữ nghệ thuật có tính chính xác, tính hàm súc, tính phóng đại, tính cách điệu và tính tổ chức. Nguyễn Phan Cảnh trong chuyên luận Ngôn ngữ thơ (2000) đã nhấn mạnh tính tạo hình, tính biểu hiện của ngôn từ nghệ thuật. Cuốn Lí luận văn học (NXB GD – 2006), Hà Minh Đức (chủ biên) thì cho rằng tính chính xác, tính hàm súc và tính hình tượng là những đặc điểm chung của ngôn ngữ văn học... Như thế, từ những quan niệm khác nhau của các nhà nghiên cứu về đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật, ta có thể xác định những tính chất cơ bản của ngôn ngữ nghệ thuât, đó là: Tính chính xác, tính hình tượng, tính cấu trúc, tính hệ thống, tính cá thể hóa. Tính chính xác của ngôn ngữ nghệ thuật xuất phát từ một yêu cầu rất quan trọng của văn học là nó phải phản ánh hiện thực một cách chân thực, đầy đủ như nó vốn có. Giống như nhà bác học Lê Quý Đôn đã từng nói “Văn muốn hay trước hết phải đúng”. Nói rõ hơn, đây chính là khả năng của ngôn ngữ văn học có thể biểu hiện đúng điều mà nhà văn muốn nói, miêu tả đúng cái mà nhà văn muốn biểu hiện. Tính chính xác là một đặc trưng cơ bản đầu tiên của ngôn ngữ nghệ thuật. Tính hình tượng là khả năng gợi lên những hình tượng nghệ thuật đưa ta thâm nhập vào thế giới của những cảm xúc, ấn tượng, suy tưởng. Tính hình tượng của ngôn ngữ thể hiện ở nhiều mặt như các loại từ, các phương thức chuyển nghĩa để soi sáng một vật này qua vật khác. Ngôn ngữ nghệ thuật không chấp nhận những mô hình có sẵn mà tính hình tượng của nó thể hiện ở sự thống nhất giữa mặt tạo hình và mặt biểu đạt của văn bản ngôn từ. Hai bình diện này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong việc tạo thành một tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo. Khóa luận tốt nghiệp 17 Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Nguyễn Thị Phương Thảo – K32A Ngữ văn Văn bản nghệ thuật cũng là một cấu trúc có tính hệ thống. Trong một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh phải có mối quan hệ chặt chẽ giữa cấu trúc bề mặt và cấu trúc bề sâu. Là sự kết hợp hữu cơ giữa văn bản ngôn từ (về mặt hình thức biểu đạt, chất liệu), hệ thống hình tượng (thành tố trung gian gắn bó thành tố và nội dung) và các lớp nội dung ý nghĩa của tác phẩm nghệ thuật (cấu trúc chiều sâu: chủ đề tư tưởng, cảm xúc), cấu trúc bề mặt và cấu trúc bề sâu có sự thống nhất căn bản: nội dung nào thì hình thức ấy. Tính cấu trúc và tính hệ thống của ngôn ngữ tự nhiên biểu hiện ở mối quan hệ bên trong ngôn ngữ (chủ thể lời nói luôn luôn thống nhất) thì với ngôn ngữ nghệ thuât biểu hiện chủ yếu trong quan hệ với các nhân tố ngoài ngôn ngữ (hình tượng nghệ thuật, phong cách tác phẩm, tác giả, khuynh hướng, trào lưu văn học, hệ tư tưởng, quan niệm thẩm mỹ thời đại). Từ mối quan hệ đó, văn bản tác phẩm trở thành một bản hòa tấu có một tổng hợp lực mạnh mẽ, tác động đến người tiếp nhận văn bản. Ngôn ngữ nghệ thuật có tính cá thể hóa và đó chính là đặc điểm phong cách tác giả thể hiện trên văn bản nghệ thuật. Nó thể hiện qua các thao tác sử dụng ngôn từ, các thủ pháp sáng tạo mà tác giả sử dụng để xây dựng hình tượng. Ngôn ngữ nghệ thuật được cá thể hóa khi nó mang dấu ấn phong cách tác giả tức là mang quan niệm của tác giả về đời sống con người. Những nhân tố ảnh hưởng đến bút pháp tác giả, hệ thống hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm đó là các biện pháp thể hiện hình tượng và nội dung tư tưởng sự vận dụng ngôn ngữ qua các thao tác. Ngôn từ nghệ thuật đạt tới tính cá thể (có phong cách) phải thể hiện được nhân cách, tâm hồn, tư tưởng của nhà văn thông qua những thao tác lựa chọn từ vựng, phương thức thể hiện giọng điệu của họ. Tác giả có phong cách ngôn ngữ riêng biệt, độc đáo phải là người có quan niệm nghệ thuật riêng, cá nhìn riêng đối với đời sống con người và phải được biểu đạt bằng một giọng điệu riêng, tiếng nói riêng của mình. Chẳng hạn Khóa luận tốt nghiệp 18 Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Nguyễn Thị Phương Thảo – K32A Ngữ văn như Nguyễn Huy Thiệp đã dùng giọng nói châm biếm, mỉa mai hài hước cay độc để phơi bày những cái xấu xa, đồi bại, tha hóa, lố bịch của con người trên trang giấy của mình. Phạm Thị Hoài lại dùng lối văn phê phán phủ định, trào phúng, bắt người đọc phải suy nghĩ, trăn trở, day dứt và luôn cảm thấy không yên ổn. Vậy, có thể thấy với những đặc tính trên thì ngôn ngữ nghệ thuật không đơn thuần là phương tiện hình thức, là cái vỏ ngôn ngữ mà nó là hình thức mang tính nội dung. 1.1.3. Các thành phần cơ bản của ngôn ngữ nghệ thuật Nếu như trong thơ trữ tình, kiểu nói duy nhất thống lĩnh toàn bộ thế giới nghệ thuật là lời trực tiếp của nhân vật trữ tình thì trong văn xuôi tự sự các kiểu lời lại phong phú hơn nhiều: Ngôn ngữ nhân vật có lời đối thoại, lời độc thoại, độc thoại nội tâm; Ngôn ngữ trần thuật có lời kể, lời tả, lời bình luận trữ tình, các kiểu lời trung gian như lời nửa trực tiếp, sự đan xen các kiểu lời. Tùy thuộc vào các chức năng của mỗi kiểu lời và khả năng vận dụng của mình mỗi nhà văn lại sử dụng và phát huy các kiểu lời ấy trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. 1.2. Vài nét về ngôn ngữ tiểu thuyết và ngôn ngữ tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1975 1.2.1. Ngôn ngữ tiểu thuyết Milan Kundera trong cuốn Thi pháp văn xuôi đã từng phát biểu: “Thời hiện đại là thời ra đời của tiểu thuyết. Khi thế giới tồn tại nhiều tâm lý, nhiều niềm tin mà con người chia lấy cho cho nhau, ấy là lúc tiểu thuyết ra đời...Tiểu thuyết chính là mô hình, là hình ảnh của thế giới hiện đại” [35; 102]. Thật đúng như vậy, mỗi thể loại văn học gắn với một thời đại lịch sử đặc thù. Thời cổ đại gắn với sử thi, anh hùng ca bất hủ, thời cổ điển gắn với những bi kịch mẫu mực, còn thời đại ngày nay thì gắn liền với tiểu thuyết. Khóa luận tốt nghiệp 19 Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Nguyễn Thị Phương Thảo – K32A Ngữ văn Có thể thấy, tiểu thuyết xuất hiện đã trở thành thể loại khác biệt với tất cả các thể loại văn học truyền thống. Nó từ chối cách nhìn đối tượng bằng cái nhìn sử thi thành kính, chối bỏ hệ từ ngữ mẫu mực, tôn kính. Trong tiểu thuyết, ngôn ngữ vừa là phương tiện, vừa là đối tượng miêu tả, được trình bày như những hình tượng ngôn ngữ sống động: “Ngôn ngữ văn học được tái tạo trong đấy không phải đã thống nhất và hoàn chỉnh toàn bộ và không còn phải bàn cãi mà được tái tạo ở nhiều trạng thái có nhiều khác nhau, sống động trong sự đổi mới và cải biến của nó” [35; 90]. Nếu như ngôn ngữ sử thi đường bệ, dài dòng, lời nói chưa được cá thể hóa thì ngôn ngữ tiểu thuyết gần gũi với đời thường. Nó mang tính văn xuôi, tính tổng hợp và đa thanh. Đó là thứ ngôn ngữ có phần suỗng sã hơn, có sự chuyển động không ngừng như bộn bề cuộc sống. Các nhà tiểu thuyết đã tạo nên thứ ngôn ngữ giàu tính đối thoại, trong đó có một trung tâm ngôn ngữ nhất định và sắp xếp các hệ lời tạo thành tính phức điệu của tiểu thuyết. Nói cách khác, ngôn ngữ tiểu thuyết là ngôn ngữ năng động và đa dạng, có sự ý thức, cá tính hóa phong cách nhà văn, bởi nhà văn vừa là người tổ chức hệ lời sống động, vừa không triệt tiêu tính chất của văn bản, vừa đảm bảo xây dựng một trung tâm ngôn ngữ trong cuốn tiểu thuyết của mình. Từ đó mà tiểu thuyết có sức mạnh để đứng riêng độc lập, lấn lướt các thể loại khác, thu hút các thể loại vào trong cấu trúc của mình, biện giải lại và sắp xếp lại trọng tâm cho chúng. 1.2.2. Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau năm 1975 Sau năm 1975, nền văn học Việt Nam có những đổi mới và biến chuyển sâu sắc cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện để phù hợp với đời sống mới. Sự đổi nới trong văn chương diễn ra trên nhiều phương diện: Từ quan niệm về hiện thực phản ánh, quan niệm nghệ thuật về con người đến các phương thức biểu hiện phong phú. Trong số các thể loại văn học, văn xuôi được ghi nhận Khóa luận tốt nghiệp 20 Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Nguyễn Thị Phương Thảo – K32A Ngữ văn là có nhiều đổi mới nhất cả về số lượng và chất lượng, cả bề rộng lẫn bề sâu. Tiểu thuyết giống như người khổng lồ của nền văn xuôi hiện đại, nơi tập trung nhiều thành tựu rực rỡ nhất, đã ghi nhận những thử nghiệm đổi mới và thành công bước đầu. “Sự đổi mới về ngôn ngữ” được coi là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công đó. Khi tìm hiểu về văn xuôi Việt Nam nói chung, tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 nói riêng, sẽ thật là thiếu xót nếu ta không tìm hiểu về ngôn ngữ và sự đổi mới của nó. Có thể thấy, ngôn ngữ văn xuôi Việt Nam sau 1975 có một số đặc điểm cơ bản sau: 1.2.2.1. Ngôn ngữ đậm chất hiện thực, đời thường Nói về ngôn ngữ văn chương sau 1975, nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Bình nhận xét: “...Chưa bao giờ ngôn ngữ văn chương gần với ngôn ngữ sinh hoạt – thế sự đến thế. Chưa bao giờ trong văn chương (Kể cả thơ, kịch, phim) những câu chửi thề, chửi tục, lối nói trần tục, bụi bặm, dân dã xuất hiện nhiều đến thế...” [3; 173]. Thực vậy, các nhà văn thời kì này có khát vọng diễn đạt cái thô nhám, đời thường, phức tạp của đời sống, nơi con người là những cá nhân đa đoan, đa sự của kiếp người. Ngôn ngữ văn xuôi không còn trang trọng, mà suồng sã và mang nặng tính khẩu ngữ, để có thể ôm trọn được mảng hiện thực phức tạp. Câu văn cũng linh hoạt về cú pháp, thoải mái trong cách diễn đạt, đậm tính phê phán và tươi rói sự sống. Chống lại lối văn hành chính khô khan, thứ ngôn ngữ sáo rỗng, phi cá tính là một ngôn ngữ dung nạp thoải mái các thành phần khẩu ngữ, cố tình xô lệch cú pháp, nhất là sự công khai “nhại” tất cả mọi ngôn ngữ kiểu cách vô hồn. Đó là những câu văn của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài... Không phải ngẫu nhiên mà Phạm Thị Hoài bày tỏ quan niệm: “Tôi chán văn chương trước kia, tôi quan tâm tới bút pháp hơn là phản ánh” [29; 356]. Chính cách sử dụng ngôn ngữ đậm chất hiện thưc đời thường đã góp phần thể hiện dấu ấn tác giả rõ nét. Nhà văn không yên vị là người rao giảng Khóa luận tốt nghiệp 21 Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Nguyễn Thị Phương Thảo – K32A Ngữ văn đạo đức mà quan tâm đến nhu cầu gọi đúng tên, chỉ ra đúng bản chất của sự vật. Với tất cả sự sắc sảo của mình, nhà văn đã đưa lớp ngôn ngữ bụi bặm vào văn học, theo cách này hay cách khác, bằng sự trỗi dậy cao độ của ý thức cá nhân. Và văn chương thực sự đã trở thành cuộc trình diễn thời trang của cá tính người nghệ sĩ với ngôn ngữ đậm chất hiện thực, đời thường. 1.2.2.2. Ngôn ngữ tăng cường tính tốc độ, thông tin và tính triết luận Chiến tranh qua đi, cuộc sống lại trở về với muôn mặt đời thường của nó. Văn học thời kì này không còn mang nặng nghĩa vụ phục vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu như trước nữa mà trở về với nhiệm vụ soi rõ từng ngóc nghách tâm hồn của con người. Từ đó, nhu cầu tăng cường tốc độ và lượng thông tin trong văn học được đặt ra như một đòi hỏi chính đáng và tất yếu ở thời đại “bùng nổ thông tin”, thời đại công nghệ kĩ thuật cao và chuyển động “siêu tốc”, phù hợp với nhịp độ của cuộc sống hiện đại, với guồng quay của cơ chế thị trường. Ngôn ngữ văn xuôi sau năm 1975 có sự tăng cường đáng kể tính tốc độ. Ta bắt gặp trong văn xuôi thời này những mạch truyện dồn dập, lối vào truyện nhanh, đặc biệt là vai trò của đối thoại trong việc mở rộng cốt truyện, dẫn dắt liên tưởng, tạo ra cảm giác căng của mạch truyện. Tính tốc độ cũng thể hiện ở lối liệt kê miên man, giản lược lời bình, đánh giá, ở sự đậm đặc các chi tiết như trong văn của Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Huy Thiệp... Nó phục vụ cho nhu cầu diễn tả đời sống thường nhật, xô bồ, hỗn tạp, bề bộn, lo toan, chồng chéo các quan hệ như một dòng chảy sôi sục... Tăng cường tính tốc độ cũng là làm tăng khả năng thông tin cho ngôn ngữ. Điều đó đồng nghĩa với việc biết dung nạp những thành phần ngôn ngữ mới, biết sử dụng các điển cố văn học mới trên cơ sở “tiền giả định” đúng đắn về trình độ tri thức của độc giả. Với người có đủ tri thức, văn hóa, ngoại ngữ thì những khái niệm khoa học như “chuỗi xoắn kép”, “đột biến”, “bức xạ Khóa luận tốt nghiệp 22 Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét