Thứ Hai, 23 tháng 5, 2016

Ảnh huởng của phun chế phẩm kích thích ra lá đến sinh truởng và năng suất hai giống ớt red chilli và pat 34

1.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ ớt trên thế giới và Việt Nam Xuất phát từ giá trị dinh dƣỡng, hiệu quả kinh tế cao, cây ớt ngày càng đƣợc trồng phổ biến và ƣa chuộng. Trong họ cà (Solonaceae), ớt có tầm quan trọng thứ hai, chỉ sau cà chua. Ngày nay ớt đƣợc trồng rộng rãi trên toàn thế giới, đặc biệt nhiều ở các nƣớc châu Mỹ và một số nƣớc châu Á nhƣ: Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Hàn Quốc, Inđônêsia, Việt Nam, Malaysia [19]. Diện tích trồng ớt trên toàn thế giới (1992) là 1.057.000 ha, đứng thứ năm trong các loại rau trồng [13]. Bên cạnh hình thức sử dụng ớt là loại gia vị, trên thế giới theo tập quán từng vùng, việc dùng ớt rất đa dạng: ớt đƣợc dùng nhƣ một loại rau xanh hoặc để trộn salat, lá ớt dùng nấu canh…Có rất nhiều loại thuốc chữa nôn mửa, sốt, khản cổ, đƣợc chế biến từ ớt. Ớt còn đƣợc dùng để chế biến thuốc xua đuổi côn trùng [20]. Hiện nay, Ấn Độ là nƣớc sản xuất ớt lớn nhất thế giới với khoảng 1 triệu tấn mỗi năm, chỉ riêng Chợ Guntur (lớn nhất châu Á) có 1 triệu bao ớt [27]. Ở nƣớc ta, cây ớt đã đƣợc trồng từ rất lâu đời nhƣng chủ yếu tập trung ở các tỉnh miền Trung (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế), vùng ven đô, khu vực đông dân cƣ (Hà Nội, Hải Dƣơng, Thái Bình, Vĩnh Phúc…). Vùng chuyên canh đã đƣợc hình thành ở Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế. Tuy nhiên, diện tích trồng ớt có thể mở rộng ra ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, đồng bằng sông Cửu Long và miền Tây Nam Bộ [13]. Việt Nam đang nổi lên nhƣ một nƣớc xuất khẩu ớt lớn [23]. Giá trị của ớt góp phần đƣa Kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam tháng 1/2010 tăng 27,8% [29]. Việt Nam là nƣớc nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, có khí hậu nóng, ẩm, mƣa nhiều tuy nhiên sự phân bố các yếu tố đó lại không đều trong năm và ở từng vụ trồng nên ảnh hƣởng lớn đến sinh trƣởng và năng suất của cây ớt. Vì vậy tùy từng vùng khác nhau mà tiến hành gieo trồng các vụ khác 11 nhau, để đảm bảo năng suất cao, tăng hệ số sử dụng đất, cây ớt thƣờng đƣợc gieo trồng vào hai vụ chính là: - Vụ Đông -Xuân: gieo hạt từ tháng 10-11, trồng tháng 11-12, thu hoạch vào tháng 4-5. - Vụ Hè -Thu: gieo hạt tháng 6-7, trồng tháng 8-9, thu hoạch vào tháng 1-2. 1.3. Đặc điểm và tình hình nghiên cứu trên đối trƣợng cây ớt 1.3.1. Nguồn gốc, sự phân bố ớt trên thế giới và Việt Nam Cây ớt có nguồn gốc rất cổ xƣa từ Mêxico, Trung và Nam Mỹ. Safford đã phát hiện quả ớt khô tại một nghĩa địa có 2000 năm tuổi ở Peru [1]. Ớt là một phần trong ẩm thực của loài ngƣời ít nhất là 7500 năm trƣớc Công nguyên và có lẽ sớm hơn. Có những bằng chứng khảo cổ ở các khu vực ở tây nam Ecuador cho thấy ớt đã đƣợc thuần hóa hơn 6000 năm về trƣớc, và là một trong những loại cây trồng đầu tiên ở châu Mỹ. Ngƣời ta cho rằng ớt đã đƣợc thuần hóa bởi những cƣ dân tiền sử ở các khu vực khác nhau của Nam và Bắc Mỹ, từ Peru ở phía Nam đến Mexico ở phía Bắc và một số vùng của các bang Colorado và New Mexico bởi các dân tộc Pueblo Cổ đại) [27]. Ở Nam Mỹ, từ một dạng cây ớt cay hoang dại, đƣợc thuần hóa và trồng nhiều nhất ở Bắc và Nam Mỹ. Sau đó đƣợc trồng ở châu Âu, Ấn Độ cách đây hơn 500 năm [5]. Ớt đƣợc Crixtôp Côlông đƣa vào Tây Ban Nha vào năm 1493 khi ông ghé vào nƣớc này trên hành trình trở về sau chuyến đi vòng quanh thế giới của ông [4]. Chrixtop Côlông đã là một trong những ngƣời Châu Âu đầu tiên thấy ớt (ở Caribe), và gọi chúng là "tiêu" vì chúng có vị cay tƣơng tự (không phải bề ngoài giống nhau). Ớt đã đƣợc trồng khắp nơi trên thế giới sau thời Columbus. Diego Aslvarez Chanca, một thầy thuốc trong chuyến đi thứ hai của Columbus đến West Indies năm 1493, đã mang những hạt ớt đầu tiên về Tây Ban Nha, và đã lần đầu viết về các tác dụng dƣợc lý của chúng vào năm 12 1494. Từ Mêxico, vào thời đó đang là thuộc địa của Tây Ban Nha, cũng là một nƣớc kiểm soát thƣơng mại với Châu Á, ớt đã nhanh chóng đƣợc chuyển qua Philippines và sau đó là Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản với sự trợ giúp của các thủy thủ Châu Âu. Gia vị mới này đã nhanh chóng đƣợc sử dụng trong chế biến thức ăn của các quốc gia này [27]. Khu vực Châu Á cuối thế kỷ 14 cây ớt đã đƣợc trồng ở Trung Quốc và lan rộng qua Nhật Bản, bán đảo Triều Tiên đầu thế kỷ 15. Các giống ớt trồng ở vùng này thuộc nhóm cay hay hơi cay Ở Đông Nam Á nhƣ Inđônêsia, cây ớt đƣợc trồng sớm hơn châu Âu và hiện nay đã bao phủ toàn khu vực với dạng ớt cay là chủ yếu. Mãi đến tận thế kỷ thứ 16 ngƣời châu Âu mới biết trồng cây ớt. Việc gieo trồng đƣợc phổ biến từ vùng Địa Trung Hải đến nƣớc Anh vào năm 1548 và đến Trung Âu vào cuối thế kỷ thứ 16. Sau đó những ngƣời Bồ Đào Nha mang ớt từ Barazil đến Ấn Độ trƣớc năm 1885 và việc trồng ớt đƣợc thông báo ở Trung Quốc vào khoảng năm 1700. Ớt đƣợc nhập vào Triều Tiên khoảng cuối thế kỷ thứ 17 [4]. Cây ớt có mặt ở nƣớc ta, đƣợc du nhập từ Trung Quốc, Ấn Độ. Diện tích phân bố khá rộng rãi, tập trung ở miền Bắc và miền Trung, ở miền Nam diện tích trồng ớt còn phân tán. Ở Việt Nam cây ớt ngọt do ngƣời Pháp đƣa sang [15]. 1.3.2. Đặc điểm hình thái và phân loại cây ớt a. Đặc điểm hình thái Ớt là cây hàng niên ở dạng hoang dại có thể sống và cho trái liên tục trong nhiều năm, là cây có khả năng chịu hạn cao. Nhiệt độ thích hợp cho sinh trƣởng, phát triển của cây từ 25-300C. Ở thời ra hoa đậu trái thì độ ẩm (đất và không khí) đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành khối lƣợng và chất lƣợng trái. Độ ẩm đất thấp (dƣới 70%) trái bị cong và vỏ trái không mịn, nếu độ ẩm đất trên 80% làm bộ rễ kém phát triển, cây còi cọc [10]. 13 Rễ: ớt có rễ cọc phát triển mạnh với rất nhiều rễ phụ. Thân: Ớt là cây bụi thân gỗ 2 lá mầm, thân thƣờng mọc thẳng, đôi khi có dạng thân bò [1] khi cây già phần gốc thân chính hóa gỗ, dọc theo chiều dài thân có 4-5 cạnh. Thân có lông hoặc không lông, cây cao 35-65 cm, có giống cao 125-135 cm. Ớt phân tán mạnh, kích thƣớc tán thay đổi tùy theo điều kiện canh tác và giống. Lá: Ớt thƣờng có lá đơn mọc xoắn trên thân chính [ 1] đôi khi mọc chùm thành hình hoa thị, lá nguyên có hình trứng đến bầu dục, phiến lá nhọn ở đầu, lá màu xanh nhạt hoặc đậm, có lông hoặc không. Hoa: Ớt thƣờng có hoa lƣỡng tính, mọc đơn hoặc thành chùm 2-3 hoa. Hoa nhỏ, dài, lá đài nhỏ, hẹp và nhọn. Quả: quả có 4 thùy, hình dạng rất thay đổi từ hình cầu đến hình nón, bề mặt quả có thể phẳng, gợn sóng, có khía hay nhẵn; khi chín có màu đỏ, đen, vàng, da cam. b. Phân loại Theo các tài liệu về phân loại học thực vật [2], [12]thì ớt thuộc hệ thống phân loại sau: Ngành thực vật hạt kín (Magnoliophyta), bộ Hoa mõm sói (Scrophulariales), họ cà (Solanaceae), chi Capsicum. Chi capsicum bao gồm 20-30 loài, trong đó có 5 loài trồng trọt chính là: Capsicum annuum L., Capsicum frutescens L.,Capsicum chinenes Jacquin, Capsicum pendulum Willdenow, Capsicum pubescens Ruiz & Pavon. Ở Việt Nam, theo Phạm Hoàng Hộ thì ớt có 3 loài sau: Capsicum frutescens L., Capsicum annuum L., Capsicum baccatum L. trong đó hai loài Capsicum annuum L., Capsicum baccatum L. có nguồn gốc từ Brazil [7]. 14 1.3.3. Kĩ thuật làm đất, gieo trồng, chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh ở cây ớt - Chuẩn bị đất: Đất thoát nƣớc tốt, có cơ cấu thoáng xốp nhƣ: Đất cát pha, đất thịt pha sét, đất phù xa ven sông và đất canh tác lúa.Đất không hoặc ít nhiễm phèn mặn, có hàm lƣợng dinh dƣỡng khá, pH đất 5,5-6,5 [22]. - Kỹ thuật làm đất: Làm đất kỹ, cày xới sâu 20- 25cm, phơi ải 10-15 ngày, lên luống cao 20cm, rộng 1m.(có thể cao hoặc rộng hơn tuỳ theo vùng đất) [22]. - Ươm cây con: Xử lý hạt ớt bằng nƣớc ấm 3 sôi 2 lạnh (53 0C) trong 30 phút, hong khô dƣới ánh nắng nhẹ, gieo hạt vào bầu đã đƣợc xử lý thuốc để ngăn ngừa mầm bệnh, sâu hại tấn công. Khi cây có từ 4-5 lá thật (25-35 ngày sau gieo), thì chuyển cây con ra trồng. Có thể trồng theo khoảng cách: 50 x 30 cm hoặc 70 x 60 cm. Trƣớc khi nhổ cần xiết nƣớc 5- 6 ngày, tƣới đẫm 4-6 giờ sau đó nhổ trồng ngay lúc sáng hoặc lúc chiều mát. (Lƣợng phân bón khi làm bầu giống nhƣ bón lót, nhƣng chú ý đất phải thật tơi mịn và sạch; vật liệu làm bầu cần đƣợc khử trùng để hạn chế một số bệnh ở giai đoạn cây con) [22]. - Chăm sóc ớt: Mùa mƣa cần đảm bảo thoát nƣớc tốt, mùa nắng phải tƣới nƣớc đầy đủ. Tỉa bỏ các cành, lá dƣới điểm phân cành để cây ớt phân tán rộng và gốc đƣợc thông thoáng và bón phân đầy đủ cho cây [22]. - Thu hoạch: Thu hoạch ớt khi trái bắt đầu chuyển màu. Ngắt cả cuống trái, tránh làm gãy nhánh, bình thƣờng cách 1-2 ngày thu 1 lần. Nếu chăm sóc tốt thời gian thu hoạch có thể kéo dài hơn 3 tháng[22]. - Một số sâu, bệnh thường gặp: Bọ trĩ, bọ phấn trắng, sâu xanh đục trái, sâu ăn tạp, bệnh thán thƣ…Để phòng trừ hiệu quả cần thực hiện một số biện pháp sau: cày ải sớm để tiêu diệt nguồn dịch hại trong đất, thu hoạch ớt đúng thời vụ tránh để quả quá lâu, nhất là khi trời mƣa, ớt đến giai đoạn thu hoạch, vệ sinh đồng ruộng, không vứt quả, cây bệnh trên ruộng. [31]. 15 1.3.4. Tình hình nghiên cứu ớt trên thế giới và Việt Nam Ớt là loại rau ăn quả gia vị không thể thiếu đƣợc trong bữa ăn hàng ngày, đặc biệt vùng Đông Nam Á và nhiều nƣớc nhiệt đới khác. Ớt đƣợc chế biến dƣới nhiều dạng và đã trở thành mặt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng. Bởi thế cây ớt là một đối tƣợng nghiên cứu khá rộng rãi về mọi mặt: nguồn gốc, phân loại, giống, sâu bệnh hại, tác động các biện pháp kỹ thuật thâm canh nhằm tăng năng suất, đến công nghệ chế biến sau thu hoạch, đặc biệt là kỹ thuật làm tƣơng ớt xuất khẩu cũng nhƣ dùng trong nội địa và cả những nghiên cứu trong lĩnh vực y học ngày càng đƣợc đẩy mạnh. Để đáp ứng nhu cầu của sản xuất nhƣ năng suất cao, phẩm chất tốt, chống chịu tốt với điều kiện ngoại cảnh bất lợi (chịu nóng, hạn hán, rét), chống sâu bệnh (do vi khuẩn, vi rút), các nhà khoa học, Viện nghiên cứu rau quả đã chú ý nhiều về nguồn gen ớt, vì nguồn gen dùng làm vật liệu khởi đầu để chọn lọc hoặc lai tạo cho giống ớt thích hợp với điều kiện sinh thái mỗi vùng [21]. Ở Ấn Độ. Desai V.G.P.; Patil M.M. và Aniarkar M.V., 1987 nghiên cứu sự rụng hoa ớt bằng chất điều hòa sinh trƣởng. Kết quả cho thấy: tùy theo mùa vụ, tỉ lệ rụng hoa ớt nằm trong khoảng 50 - 95% [18]. Trong y học có nhiều nghiên cứu về tác dụng chữa bệnh của ớt. Theo các nhà nghiên cứu Australia, sử dụng ớt trong những bữa ăn có thể giảm nguy cơ rối loạn insilin liên quan đến bệnh tiểu đƣờng [28]. Nghiên cứu về cây ớt ở Việt Nam còn rất nhiều mới mẻ, chủ yếu là Viện Nghiên cứu Rau Quả, Viện Dinh dƣỡng học, Viện Khoa học Nông nghiệp và các trƣờng đại học Nông nghiệp I, …về một số khía cạnh của cây ớt nhằm phục vụ sản xuất. Tiềm năng phát triển cây ớt ở nƣớc ta rất to lớn, đặc biệt ở các tỉnh Miền Trung có dải cát ven biển chạy dài trên 30.000 ha đất cát biển đều có khả năng trồng ớt. Do ứng dụng các tiến bộ khoa học về giống, các 16

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét