Thứ Ba, 17 tháng 5, 2016

Nghiên cứu sự biến động thành phần, sự phân bố và thích nghi của các loài nhện (araneae) trong hệ sinh thái đô thị hà nội

Khóa luận tốt nghiệp 3. Nội dung nghiên cứu - Xác định thành phần loài nhện (Araneae) ở một số vườn hoa, công viên khu vực nội đô thành phố Hà Nội. - Bước đầu nhận xét về đặc trưng phân bố và đặc điểm thích nghi của nhện (Araneae) ở khu vực nội đô thành phố Hà Nội. 4. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn - Ý nghĩa lí luận: Nhằm góp phần bổ sung vào nguồn tài liệu nghiên cứu thành phần và phân bố nhện ở đô thị Hà Nội. - Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài sẽ góp phần khôi phục, bảo vệ tính đa dạng sinh học trong các thị xã, thành phố đang và sẽ được quy hoạch, mở rộng và phát triển. SV: Ngô Thùy Chi 11 Lớp: K35B- Sinh KTNN Khóa luận tốt nghiệp Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Lược sử nghiên cứu nhện Khái quát về nhện Tên khoa học: Araneae Tên tiếng Anh: Spider Tên Việt Nam: Nhện Bộ nhện Araneae thuộc lớp hình nhện Arachnida, ngành động vật chân đốt Arthropoda. Theo Platnick N.I.,(2005) [20], bộ nhện chiếm ưu thế về số loài và số lượng cá thể trong 11 bộ của lớp hình nhện (11 bộ bao gồm: Acari, Amblypygi, Araneae, Opiliones, Palpigradi, Pseudoscorpiones, Ricinulei, Schizomida, Scorpioides, Solifugae, Thelyphonida). Việc đặt tên khoa học cho nhện được bắt đầu từ năm 1757, tác giả Ovid và Clerek đã đưa ra tên của bộ nhện là Araneae và Aranei. Đến năm 1801, Latreille đưa ra tên bộ nhện là Araneida. Năm 1862, Dallas cũng nêu ra tên của bộ nhện là Araneida. Năm 1938, Bristowe đưa tên bộ nhện là Araneae và tên này được sử dụng cho đến ngày nay (Platnick N.I., 2005) [20]. Cơ thể nhện chia ra 2 phần: phần giáp đầu ngực (Cephalothorax) và phần bụng (Abdomen), hai phần này được nối với nhau bởi cuống bụng. Phần giáp đầu ngực bao gồm tấm lưng ngực và tấm bụng ngực. Phía trên đầu của giáp đầu ngực có miệng và 1 đôi chân kìm, bên cạnh chân kìm là 1 đôi chân xúc giác. Các mắt nằm trên tấm lưng ngực, thông thường có 8 mắt đơn. Bộ phận sinh dục con cái nằm ở phần giữa mặt dưới của bụng. Cuối bụng có 1 đến 4 đôi núm tơ (bộ phận nhả tơ). Nhện có 4 đôi chân bò nằm trên phần giáp đầu ngực. Nhện đực và nhện cái phân biệt với nhau qua đốt ngoài cùng của đôi chân xúc giác (đốt này gọi là xúc biện). Xúc biện nhện đực phình rất to ở SV: Ngô Thùy Chi 12 Lớp: K35B- Sinh KTNN Khóa luận tốt nghiệp đầu, chân xúc giác nhện cái thuôn dài. Nhện phát triển qua các giai đoạn: trứng- nhện non - nhện trưởng thành. Việc phân loại nhện chỉ tiến hành trên nhện trưởng thành, đặc điểm cơ bản nhất sử dụng trong phân loại là xúc biện của con đực (đốt ngoài cùng của chân xúc giác) và bộ phận sinh dục của con cái. 1.2. Tình hình nghiên cứu nhện (Araneae) trên thế giới Nhận thức rõ tầm quan trọng của các loài nhện trong khoa học và thực tiễn đời sống, năm 1999 một tổ chức với tên gọi là Hội nhện Quốc tế (International Society of Arachnology) đã được thành lập với sự tham gia của hơn 600 nhà khoa học từ 60 nước khác nhau trên toàn thế giới. Từ sau hội nghị nhện quốc tế lần thứ XV năm 2001, nghiên cứu về nhện đã thực sự trở thành một môn khoa học (Arachnology - Nhện học). 1.2.1. Về thành phần loài nhện Theo thống kê của Platnick N.I., (2005) [20] trên thế giới đã ghi nhận được 38.998 loài thuộc 3.607 giống của 110 họ nhện. Tác giả đã tổng hợp tất cả các công bố về khu hệ nhện của các nước trên toàn thế giới, bắt đầu từ công trình của Clerck năm 1757. Trong đó họ nhện nhảy Salticidae có số loài cao nhất trong các họ thuộc bộ nhện. Tác giả Proszynski J., [19] (2003) đã xây dựng cơ sở dữ liệu về họ Salticidae trên thế giới bao gồm hình vẽ, các synonym và phân bố của 4080 loài nhện nhảy. Tại các nước khu vực Đông Nam châu Á, sắp xếp theo thứ tự số lượng loài nhện đã ghi nhận được từ cao đến thấp là: Inđônêxia (660 loài), Malaixia (463 loài), Myanma (455 loài), Philíppin (426 loài), Singgapo (308 loài), Thái Lan (156 loài), Việt Nam (230 loài) (Theo F.M.Murphy và J.A.Murphy (2000)) [17]. Theo tác giả, khu hệ nhện của 3 nước thuộc khu vực này bao gồm Brunei, Campuchia và Lào chưa được nghiên cứu. SV: Ngô Thùy Chi 13 Lớp: K35B- Sinh KTNN Khóa luận tốt nghiệp Ở Trung Quốc, nghiên cứu về nhện bắt đầu từ năm 1798. Năm 1999, Song D.X. và Zhu M.S., [22] đưa ra danh sách 2361 loài thuộc 450 giống của 56 họ nhện đã ghi nhận được ở nước này. Tác giả Davies V.T., (1988) [12] đã nghiên cứu và xây dựng khoá định loại tới họ của bộ nhện và khoá định loại tới loài của nhóm nhện chăng lưới đã ghi nhận được tại Ôxtrâylia. 1.2.2. Về sinh học, sinh thái học, tập tính và vai trò của nhện Theo Foelix R.F., (1996) [14] nhện phát triển qua 3 giai đoạn là trứng, nhện non và nhện trưởng thành. Giai đoạn nhện non có thể đạt tới 15 tuổi. Về kích thước cơ thể thì nhện cái luôn luôn lớn hơn nhện đực. Hầu hết con đực bị chết sau khi giao phối. Vòng đời của nhện có thời gian phát dục khác nhau tuỳ từng loài. Sinh trưởng của nhện non phải qua các lần lột xác. Tinh dịch của nhện được cất giữ tại chân xúc giác nhện đực. Nghiên cứu đặc tính sinh học của loài Cheiracanthium melanostoma, Sebastian P.A. và cs (2002) [21] đã kết luận: thời gian phát triển qua các tuổi của nhện đực là 163-200 ngày, của nhện cái là 226-299 ngày. Các loài thuộc họ nhện nhảy Salticidae có tập tính xây tổ (Foelix R.F., 1996) [14], tổ nhện là nơi nghỉ ngơi, lột xác và đẻ trứng của chúng. Khi thời tiết lạnh, các loài nhện trong vườn cây ăn quả thường tìm nơi trú ẩn để qua đông, chúng bò lên cây và trú ẩn qua đông ở các vị trí ít bị tác động của các yếu tố môi trường xung quanh ví dụ như khe hở tách ra từ vỏ của thân cây hoặc vỏ cành cây (Foelix R.F., 1996) [14]. Trong tự nhiên, các yếu tố ngoại cảnh và con người ảnh hưởng rất nhiều tới sự phát triển của các loài nhện có tập tính chăng lưới. Gió to làm cây đổ, cành gãy hay con người chặt phá cây rừng và đốt rừng làm mạng nhện bị phá dẫn đến nhện mất nơi cư trú (Davies V.T., 1988) [12]. SV: Ngô Thùy Chi 14 Lớp: K35B- Sinh KTNN Khóa luận tốt nghiệp Nhện có vai trò đặc biệt quan trọng trong phòng trừ tổng hợp sâu hại trên các cây trồng nông nghiệp. Theo Song D.X. và Zhu M.S., (1999) [22], so với côn trùng ký sinh và các loài thiên địch khác nhện có nhiều ưu thế hơn. Thứ nhất, nhện có kích thước quần thể lớn. Thứ hai, nhện là loài phàm ăn. Thứ ba, nhện xuất hiện trên cây trồng sớm hơn các loài thiên địch khác. Thứ tư, trong điều kiện thiếu thức ăn nhện vẫn có thể tồn tại trong thời gian dài. Thứ năm, khả năng sinh sản của nhện cao. Tại Trung Quốc, Liang SP và cs (2000) [15] đã phân tích nọc của loài nhện độc Ornithoctonus huwena. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, có thể sử dụng nọc của nhện trong y học, như tách chiết các chất từ nọc để làm thuốc gây tê hay chữa một số bệnh liên quan đến hệ thần kinh. Tất cả các loài nhện đều có bộ phận sản xuất tơ. Bản chất của tơ nhện là protein, được cấu thành bởi nhiều amino acid, trong đó có một số amino acid đặc biệt, nên tơ nhện có độ bền rất vững chắc đã được nghiên cứu sử dụng trong sản xuất áo quân sự và kính chống đạn. So sánh các vật liệu tự nhiên và vật liệu nhân tạo thì tơ nhện là vật liệu đáng chú ý: nó có độ bền và sự dẻo dai gấp 2 đến 3 lần xenlulo, cao su, xương, gân và bằng 1/2 độ bền của sắt thép. Vải sản xuất từ tơ nhện cũng như tơ tằm để thay thể một số loại vải từ sợi hoá học gây ô nhiễm môi trường (Foelix R.F., 1996) [14]. Nhện còn được sử dụng như chỉ thị sinh thái học để đánh giá chất lượng môi trường sống, điển hình là nhóm nhện thuộc họ nhện cuốn tổ Clubionidae rất mẫn cảm với các kim loại nặng như chì và kẽm (Clausen I.H.S., 1986) [9]. 1.3. Tình hình nghiên cứu nhện (Araneae) ở Việt Nam 1.3.1. Về thành phần loài nhện Những công bố về nhện đầu tiên ở Việt Nam bởi Simon (1886, 1896, 1903, 1904, 1906, 1908), và Hogg (1922). Hai tác giả trên đã công bố ra 20 SV: Ngô Thùy Chi 15 Lớp: K35B- Sinh KTNN Khóa luận tốt nghiệp loài nhện mới cho khoa học được phát hiện ở Việt Nam (Zabka M., 1985) [24]. Zabka M., (1985) [24] đã công bố kết quả chuyến khảo sát của mình về họ nhện nhảy Salticidae ở Việt Nam. Tác giả đã ghi nhận được 100 loài nhện nhảy, trong đó bao gồm 51 loài và 8 giống mới cho khoa học. Bùi Hải Sơn (1995) [8] đã ghi nhận được 34 loài nhện trên lúa vùng ngoại thành Hà Nội. Qua việc phân tích các mẫu vật thu được ở Việt Nam, Ono H., (2003) [18] đã phát hiện 7 loài nhện mới cho khoa học thuộc các họ Zodaridae và Liphistidae. Khu hệ nhện ở các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên của Việt Nam rất ít được nghiên cứu. Tại vườn quốc gia Ba Bể, Phạm Đình Sắc (2003) [3] bước đầu đã công bố danh sách 82 loài thuộc 23 họ nhện. Phạm Đình Sắc và cs (2004) [6] đã cho công bố danh sách và phân bố của 108 loài nhện nhảy họ Salticidae ở Việt Nam. Phạm Đình Sắc và cs (2005) [7] đã bổ sung thêm 5 loài nhện nhảy Salticidae cho khu hệ nhện Việt Nam. Lần đầu tiên ở Việt Nam, một loài nhện có nọc độc họ Theraphosidae đã được tìm thấy ở vườn quốc gia Tam Đảo tỉnh Vĩnh Phúc và khu bảo tồn thiên nhiên Hữu Liên tỉnh Lạng Sơn (Phạm Đình Sắc và Vũ Quang Côn, 2005) [5]. Cho đến năm 2005, Việt Nam đã ghi nhận được 275 loài thuộc 144 giống của 30 họ nhện (Phạm Đình Sắc, 2005) [4]. 1.3.2 Về sinh học, sinh thái học, tập tính và vai trò của nhện Các nghiên cứu về sinh học sinh thái của nhện ở Việt Nam còn rất ít. Cho đến nay, 2 loài được nghiên cứu về đặc tính sinh học sinh thái bao gồm nhện sói Pardosa pseudoannulata và nhện linh miêu Oxyopes javanus. Kết SV: Ngô Thùy Chi 16 Lớp: K35B- Sinh KTNN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét