Thứ Hai, 9 tháng 5, 2016

Đường lối công nghiệp hoá đất nước của đảng giai đoạn 1960 1995

11 1.2 TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, loài người sẽ phải trải qua năm hình thái kinh tế - xã hội kế tiếp nhau. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội được xác định vững chắc trên cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của một xã hội là toàn bộ hệ thống, các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất phù hợp với trình độ kỹ thuật tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu của xã hội. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa, là phải xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, trong đó công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ quan trọng nói trên, nhất thiết phải tiến hành CNH, tức là chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế công nghiệp. Chủ nghĩa xã hội muốn tồn tại và phát triển, cũng cần phải có một nền kinh tế tăng trưởng và phát triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Cơ sở vật chất - kỹ thuật đó phải tạo ra được một năng suất lao động xã hội cao. CNH chính là quá trình tạo nền tảng cơ sở vật chất đó là cho nền kinh tế quốc dân xã hội chủ nghĩa. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật thấp kém, trình độ của lực lượng sản xuất chưa phát triển, quan hệ sản xuất của chủ nghĩa xã hội mới được thiết lập, chưa được hoàn thiện. Vì vậy, quá trình CNH chính là quá trình xây dựng cơ sở vật chất cho nền kinh tế quốc dân. Mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một 12 bước tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Trong xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa về kinh tế đang phát triển mạnh mẽ, trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại phát triển nhanh chóng; những thuận lợi và khó khăn về khách quan và chủ quan, có nhiều thời cơ và cũng có nhiều nguy cơ, vừa tạo ra vận hội mới, vừa cản trở thách thức nền kinh tế của chúng ta, đan xen với nhau, tác động lẫn nhau. Vì vậy, đất nước chúng ta phải chủ động sáng tạo nắm bắt thời cơ, phát huy những thuận lợi để đẩy mạnh quá trình CNH tạo ra thế và lực vượt qua những khó khăn, đẩy lùi nguy cơ, đưa nền kinh tế tăng trưởng phát triển bền vững. 1.3 TÁC DỤNG CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA Từ thập niên 60 của thế kỷ XX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối CNH và coi CNH là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Phân tích những tác dụng cơ bản của CNH đối với nền kinh tế đất nước hiện nay càng làm rõ ý nghĩa vai trò trung tâm của CNH. CNH ở nước ta trước hết là mục tiêu xây dựng xã hội chủ nghĩa. Đó là một quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp thành một xã hội công nghiệp, gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể hiện đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa. 13 Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội với điểm xuất phát là nền nông nghiệp lạc hậu, bình quân ruộng đất thấp, 80% dân cư nông thôn có mức thu nhập rất thấp, sức mua hạn chế. Vì vậy, CNH là quá trình tạo ra những điều kiện vật chất kỹ thuật cần thiết về con người và khoa học - công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để không ngừng tăng năng suất lao động làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa cho nhân dân, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Quá trình CNH tạo cơ sở vật chất để làm biến đổi về chất lực lượng sản xuất nhờ đó mà nâng cao vai trò của người lao động - nhân tố trung tâm của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nền kinh tế tăng trưởng và phát triển nhờ thành tựu CNH mang lại, là cơ sở kinh tế để củng cố và phát triển khối liên minh vững chắc giữa giai cấp nông dân với giai cấp công nhân và đội ngũ tri thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là góp phần tăng cường quyền lực, sức mạnh và hiệu quả của bộ máy quản lý kinh tế nhà nước. Quá trình CNH tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ vững mạnh trên cơ sở đó mà thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế. Sự nghiệp CNH đất nước thúc đẩy sự phân công lao động xã hội phát triển, thúc đẩy quá trình quy hoạch vùng lãnh thổ hợp lý theo hướng chuyên canh tập trung làm cho quan hệ kinh tế giữa các vùng, các miền trở nên thống nhất cao hơn. 14 CNH không những có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng phát triển cao mà còn tạo tiền đề vật chất để xây dựng phát triển và hiện đại hóa nền quốc phòng - an ninh. Sự nghiệp quốc phòng và an ninh gắn liền với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Thành tựu CNH tạo ra tiền đề kinh tế cho sự nghiệp phát triển đồng bộ về kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng và an ninh. Thành công của sự nghiệp CNH nền kinh tế quốc dân là nhân tố quyết định sự thắng lợi của con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Chính vì vậy mà CNH kinh tế được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 15 Chương 2. ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA ĐẤT NƯỚC CỦA ĐẢNG GIAI ĐOẠN 1960-1995 2.1 NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA ĐẤT NƯỚC CỦA ĐẢNG GIAI ĐOẠN 1960-1985 2.1.1 Đặc điểm chi phối đến sự hình thành đường lối công nghiệp hóa đất nước của Đảng giai đoạn 1960-1985 Muốn xem xét, nghiên cứu đường lối CNH XHCN (công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa) không thể không xem xét bối cảnh lịch sử ảnh hưởng trực tiếp đến tiến trình hình thành đường lối CNH. Vậy CNH XHCN ở nước ta tiến hành trong hoàn cảnh, tập trung ở những đặc điểm nổi bật nào? Xuất phát từ thực tiễn lịch sử có ba vấn đề cần quan tâm: (1) Điểm xuất phát của CNH CNH ở nước ta xuất phát từ điểm rất thấp về phát triển kinh tế - xã hội, về phát triển lực lượng sản xuất từ trạng thái không phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ và tính chất phát triển của lực lượng sản xuất. Năm 1960, công nghiệp chiếm 18,2% thu nhập quốc dân sản xuất, 7% lao động xã hội trong các ngành kinh tế quốc dân; nông nghiệp chiếm tỷ lệ tương ứng là 42,3% và 83%, sản lượng lương thực bình quân đầu người không dưới 100 USD. Trong khi phân công lao động xã hội chưa phát triển lực lượng sản xuất còn ở trình độ thấp thì quan hệ sản xuất được đẩy lên trình độ tập thể hóa và quốc doanh hóa là chủ yếu: có 85% tổng số hộ nông dân vào hợp tác xã, 100% 16 hộ tư sản được cải tạo trong số tư bản công thương nghiệp thuộc diện cải tạo, gồm 80% thợ thủ công cá thể vào hợp tác xã tiểu thủ công. (2) CNH XHCN diễn ra trong bối cảnh quốc tế đầy biến động và phức tạp Trong suốt thời gian tiến hành CNH, tình hình quốc tế luôn diễn biến rất sôi động, phức tạp và không thuận chiều. Bắt đầu CNH được 4 năm thì đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc. Đất nước trực tiếp phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa xây dựng; miền Nam thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc. Khi đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội được vài năm thì kẻ thù gây ra chiến tranh biên giới. Chiến tranh biên giới kết thúc thì lại kéo theo cấm vận của Mỹ. Nếu những năm 60, hệ thống xã hội chủ nghĩa lớn mạnh, phát triển nhanh không thua kém nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, có uy tín trên thế giới đã tạo ra hoàn cảnh quốc tế thuận lợi cho CNH ở nước ta, thì sang những năm 70, 80 hoàn cảnh quốc tế lại gây ra bất lợi cho quá trình CNH đất nước. Sau cuộc khủng hoảng dầu lửa của thế giới (1973) các nước xã hội chủ nghĩa do chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới kinh tế chậm hơn so với các nước tư bản chủ nghĩa nên kinh tế phát triển chậm, hiệu quả thấp, uy tín trên thị trường quốc tế giảm, cộng với sai lầm khác đã dẫn tới sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu, làm mất đi thị trường lớn và sự giúp đỡ không nhỏ của các nước này. (3) Nguồn nhân lực chưa đáp ứng cả về số lượng và chất lượng trong quá trình CNH đất nước

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét