Thứ Sáu, 6 tháng 5, 2016

Biên soạn bài kiểm tra sinh học 10 (CTC) bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng

1.2.1.4. Các mức độ về kiến thức - kĩ năng Các mức độ về kiến thức - kĩ năng được thể hiện cụ thể trong Chuẩn kiến thức - kĩ năng của chương trình GDPT. Về kiến thức: Yêu cầu HS phải nhớ, nắm vững, hiểu rõ các kiến thức cơ bản trong chương trình, sách giáo khoa, đó là nền tảng vững vàng để phát triển năng lực nhận thức ở cấp cao hơn. Về kĩ năng: Yêu cầu HS phải biết vận dụng các kiến thức đã học để trả lời các câu hỏi, giải bài tập, làm thực hành… 1.2.2. Kiểm tra, đánh giá bám sát Chuẩn kiến thức - kĩ năng 1.2.2.1. Quan niệm về kiểm tra, đánh giá, đề kiểm tra, ma trận đề kiểm tra KTĐG kết quả học tập của HS nhằm theo dõi quá trình học tập của HS, đưa ra các giải pháp kịp thời điều chỉnh phương pháp dạy của thầy, phương pháp học của trò, giúp HS tiến bộ và đạt được mục tiêu GD. Kiểm tra là khâu đầu tiên của quá trình đánh giá, nó được xem là phương tiện và hình thức của đánh giá. Hoạt động kiểm tra cung cấp những thông tin, những dữ liệu làm cơ sở cho việc đánh giá. Đánh giá là xem xét mức độ phù hợp của một tập hợp các thông tin thu được với một tập hợp các tiêu chí thích hợp với mục tiêu đã xác định nhằm đưa ra một quyết định theo một mục đích nào đó. Theo Jean- Marie De Ketele phát biểu (1989): “Đánh giá có nghĩa là: Thu thập một tập hợp thông tin đủ, thích hợp, có giá trị và đáng tin cậy; Và xem xét mức độ phù hợp giữa tập hợp thông tin này và một tập hợp tiêu chí phù hợp với các mục tiêu định ra ban đầu hay điều chỉnh trong quá trình thu thập thông tin nhằm ra một quyết định”. Còn theo Từ điển Tiếng Việt (1997), “Đánh giá được hiểu là: Nhận định giá trị. Các kết quả kiểm tra thành tích học tập, rèn luyện của HS được thể hiện trong việc đánh giá những thành tích học tập, rèn luyện đó”. Trong giáo dục học: “Đánh giá được hiểu là quá trình hình thành những nhận định, phán đoán về kết quả công việc, dựa vào sự phân tích những thông 11 tin thu được đối chiếu với mục tiêu, tiêu chuẩn đã đề ra, nhằm đề xuất những quyết định thích hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục”. Vậy, đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập và xử lý thông tin về trình độ, khả năng thực hiện mục tiêu học tập của HS, về tác động và nguyên nhân của tình hình đó nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của GV, nhà trường và cho bản thân HS để họ học tập ngày một tiến bộ hơn. Do đó, KTĐG là một khâu hết sức quan trọng trong QTDH. Nếu biết lựa chọn và phối hợp các phương pháp KTĐG một cách thích hợp thì sẽ có tác dụng tích cực đến ý thức và thái độ học tập của HS. Như vậy có thể hiểu: Đề kiểm tra là một công cụ và cũng là phương tiện để đánh giá kết quả học tập của HS sau khi học xong một chủ đề, một chương, một học kì… Xây dựng bộ công cụ KTĐG hiệu quả có tác dụng lớn đến việc đổi mới dạy và học trong nhà trường phổ thông. Trong đó, ma trận đề kiểm tra chi phối trực tiếp đến việc xây dựng đề kiểm tra. Vậy ma trận đề là gì ? Ma trận đề là một bảng hai chiều mô tả các tiêu chí của đề kiểm tra, một chiều là nội dung kiến thức cần đánh giá, một chiều là cấp độ nhận thức của HS Có thể ví ma trận đề là “bản đồ” cho các đề kiểm tra. Các câu hỏi ở đề sẽ có tọa độ tương ứng tức là mức độ khó tương đương. 1.2.2.2. Chức năng cơ bản của kiểm tra, đánh giá - Chức năng kiểm tra : Là chức năng cơ bản và đặc trưng, nhằm phát hiện thực trạng nhận biết kiến thức đã học, mức độ hiểu và áp dụng kiến thức đó, vận dụng linh hoạt vào tình huống mới của HS cũng như thái độ của các em đối với kiến thức đó, xem xét trình độ đạt được và khả năng tiếp tục học tập vươn lên của HS. Đồng thời nó còn kiểm tra hiệu quả hoạt động của công tác GD (xác định trình độ đạt tới những chỉ tiêu của mục đích dạy học, xác định xem khi kết thúc một giai đoạn (một bài, một chương, một học kỳ, một 12 năm...) của QTDH đã hoàn thiện đến một mức độ về kiến thức và kỹ năng và thái độ hay chưa?). - Chức năng dạy học của kiểm tra, đánh giá thể hiện ở tác dụng có ích cho người học cũng như người dạy trong việc thực hiện nhiệm vụ giảng dạy. Đây là một trong những khâu quan trọng của QTGD. Thông qua KTĐG giúp cho GV và HS thấy được những ưu nhược điểm của mình trong hoạt động dạy và học. Từ đó có biện pháp khắc phục những mặt yếu, kém, phát huy hơn nữa những mặt mạnh của mình, tạo cho HS tinh thần hăng say hứng thú học tập, ý thức vươn lên trong học tập và cuộc sống. - Chức năng xác nhận thành tích học tập, hiệu quả dạy học. Việc KTĐG trình độ KT - KN đòi hỏi phải soạn thảo nội dung các bài kiểm tra và các tiêu chí đánh giá, căn cứ mục tiêu dạy học cụ thể đã xác định cho từng KT - KN. Thông qua những nguồn thông tin thu được về QTGD chúng ta có biện pháp hữu hiệu để điều chỉnh quá trình dạy và học sao cho thích hợp nhất, phù hợp với tình hình thực tiễn cũng như xu hướng chung của khu vực và thế giới. Qua kiểm tra GV điều chỉnh kế hoạch dạy học (cả về ND và PPDH sao cho thích hợp để loại trừ những lệch lạc, tháo gỡ những khó khăn trở ngại, thúc đẩy quá trình học tập của HS). Ba chức năng trên luôn luôn quan hệ chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, tuỳ vào đối tượng hình thức, phương pháp đánh giá mà một chức năng nào đó có thể sẽ trội hơn. Hiểu sâu sắc ba chức năng này và vận dụng vào QTDH góp phần giúp cho quá trình dạy và học ngày càng hiệu quả hơn. 1.2.2.3. Yêu cầu kiểm tra, đánh giá Lý luận và thực tiễn dạy học ngày nay chứng tỏ rằng, vấn đề KTĐG tri thức, kỹ năng, kỹ xảo chỉ có tác dụng khi thực hiện những yêu cầu trong việc KTĐG tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của HS. Để KTĐG có hiệu quả cao cần phải đảm bảo 5 yêu cầu cơ bản sau đây: - Một là: Đảm bảo tính khách quan, chính xác: Hoạt động KTĐG kết 13 quả học tập của HS phải được thực hiện một cách khách quan và chính xác tới mức tối đa có thể được, tạo điều kiện để mỗi HS bộc lộ thực chất khả năng và trình độ của mình, ngăn chặn mọi biểu hiện thiếu trung thực trong KTĐG. + Tính khách quan trong KTĐG rất quan trọng, nó là một yêu cầu đòi hỏi của xã hội đối với chất lượng GD, tạo ra tâm lý tích cực cho đối tượng được đánh giá, động viên đối tượng được đánh giá vươn lên trong học tập. + Để đánh giá được khách quan trước hết đòi hỏi người GV phải có nhận thức đúng về tầm quan trọng của tính khách quan trong KTĐG, đồng thời phải có thái độ khách quan, trung thực, chí công vô tư, không có thái độ tuỳ tiện, thành kiến đối với HS. - Hai là: Đảm bảo tính toàn diện: Phản ánh đầy đủ các khía cạnh, các mặt cần đánh giá theo mục tiêu đã đề ra, không chỉ về mặt số lượng mà cả về chất lượng, không chỉ về mặt tri thức mà cả về mặt kỹ năng và thái độ. Có thể sử dụng kết hợp các hình thức công cụ đánh giá khác nhau để có thể thu thập được thông tin một cách chính xác, đa dạng và toàn diện giúp GV có cách nhìn chính xác, đầy đủ và khách quan thực trạng giảng dạy, học tập và thái độ của HS từ đó có cách nhìn toàn diện hơn về GD. - Ba là: Đảm bảo tính hệ thống: KTĐG phải được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục, có hệ thống và theo kế hoạch. Do đó KTĐG có thể được tiến hành sau một bài hay một vấn đề nào đó vừa lên lớp. Đánh giá một cách thường xuyên và có hệ thống sẽ giúp cho GV cũng như các cấp quản lý có được những thông tin đầy đủ, rõ ràng và chính xác, tạo cơ sở để KTĐG một cách toàn diện và có những điều chỉnh kịp thời. - Bốn là: Đảm bảo tính công khai và tính phát triển: Đánh giá phải được tiến hành công khai, kết quả đánh giá phải được công bố kịp thời để mỗi HS có thể tự đánh giá, xếp hạng trong tập thể, để tập thể HS hiểu biết lẫn nhau, học tập giúp đỡ lẫn nhau và tạo ra động lực để thúc đẩy các em có mong muốn vươn lên, có tác dụng phát huy các mặt tốt, hạn chế mặt xấu. 14 - Năm là: Đảm bảo tính công bằng nghĩa là KTĐG phải đảm bảo rằng những HS thực hiện các hoạt động học tập với cùng một mức độ và thể hiện cùng một nỗ lực sẽ nhận được kết quả đánh giá như nhau hay nói cách khác thành tích học tập của HS phải được đánh giá đúng, công bằng, phù hợp với những tri thức mà HS chiếm lĩnh được. 1.2.2.4. Các hình thức kiểm tra, đánh giá Trong dạy học có các hình thức kiểm tra như sau : - Kiểm tra thường xuyên: Được thực hiện qua quan sát một cách có hệ thống hoạt động của lớp học nói chung, của mỗi HS nói riêng qua khâu ôn tập, củng cố bài cũ, tiếp thu bài mới, vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, nó còn giúp cho thầy tự điều chỉnh cách dạy, trò tự điều chỉnh cách học…Là hình thức KTĐG có thể được tiến hành liên tục, đều đặn sau một bài hay một vấn đề nào đó vừa lên lớp. Ví dụ: Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra sau khi HS đa học xong bài 9-SH 10 Em hãy trình bày đặc điểm cấu tạo của lục lạp phù hợp với chức năng quang hợp ? - Kiểm tra định kỳ: Được thực hiện sau khi học xong một chương lớn, một phần của chương trình hay của một học kỳ, giúp giáo viên (GV) và HS nhìn lại kết quả quả dạy và học sau những kỳ hạn nhất dịnh . - Kiểm tra tổng kết: Được thực hiện ở cuối năm học nhằm đánh giá kết quả chung, củng cố, mở rộng chương trình toàn năm học của môn học, chuẩn bị điều kiện để tiếp tục học chương trình năm sau. Như vậy, kiểm tra có vai trò rất quan trọng trong QTDH. Nó không chỉ giúp GV biết được tình hình tiếp thu tri thức của HS mà còn phục vụ đắc lực cho việc tiếp thu bài mới của HS vì kiểm tra thì có sự tái hiện, hệ thống hóa kiến thức. Các hình thức kiểm tra nêu trên được thực hiện bằng các phương pháp kiểm tra như: 15 - Kiểm tra miệng (vấn đáp): Là hình thức KT mà GV đưa ra câu hỏi và tùy theo yêu cầu của GV mà một hoặc hai HS lần lượt trực tiếp trả lời câu hỏi đó. Trong hình thức này GV hết sức lưu ý kĩ thuật sư phạm từ khâu chuẩn bị câu hỏi, công bố câu hỏi và đánh giá câu hỏi trả lời của HS. + Ưu điểm: Tập cho HS cách diễn đạt, cách phát biểu vấn đề và có thể đi sâu vào khía cạnh. + Nhược điểm: Số HS được KT ít, mất thời gian không chủ động được kế hoạch dự kiến nêú HS không trả lời được hoặc trả lời không theo ý hỏi. - Kiểm tra viết: Là hình thức KT mà GV đưa ra câu hỏi hay một hệ thống câu hỏi gọi là đề KT để một tập thể HS làm ra giấy trong một thời gian nhất định và được GV thu lại chấm điểm và đánh giá. KT viết thường được tiến hành sau một số bài hoặc cuối mỗi chương. Trong KT viết có hai loại chính: Trắc nghiệm khách quan (TNKQ) và tự luận (TL) + Loại tự luận (TL): Là loại câu hỏi mà HS viết câu trả lời theo cách diễn đạt riêng gồm nhiều dòng. + Loại TNKQ: Là loại câu hỏi chứa đựng sẵn các phương án trả lời. Gồm bốn loại chính: Câu hỏi nhiều lựa chọn, câu đúng sai, câu điền khuyết, ghép đôi - Kiểm tra thực hành: Là việc kiểm tra các thao tác làm thực hành, làm thí nghiệm, cũng như các kĩ năng giải bài tập... của HS. 1.2.3. Định hướng chỉ đạo đổi mới kiểm tra đánh giá Cùng với việc đổi mới nội dung chương trình; PPDH; KTĐG cũng sẽ có những thay đổi theo các yêu cầu sau: - Phải đánh giá chính xác và toàn diện năng lực của HS. - Tạo cho HS nhiều cơ hội để bộc lộ khả năng cũng như niềm say mê Sinh học của mình. 16

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét