Thứ Tư, 4 tháng 5, 2016

Khảo sát việc sử dụng hoá chất BVTV trong canh tác tại vùng trồng hoa xã mê linh, huyện mê linh, thành phố hà nội

Khóa luận tốt nghiệp PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Vị trí và vai trò của thuốc BVTV trong sản xuất nông nghiệp [2],[5] Theo đánh giá của FAO (1989) mỗi năm nền nông nghiệp của thế giới thiệt hại khoảng 75 tỷ đôla Mỹ do sâu bệnh và cỏ dại. Ở LB Nga mức độ thiệt hại mùa màng do sâu bệnh và cỏ dại ước tính khoảng 71,3 triệu tấn ngũ cốc, trong đó thiệt hại do bệnh khoảng 45,1%; cỏ dại - 31,4% và sâu hại 23,5%. Chính vì vậy, vấn đề bảo vệ thực vật có vị trí và vai trò rất quan trọng trong nền sản xuất nông nghiệp, vì việc bảo vệ cây trồng khỏi sâu bệnh và diệt trừ cỏ dại sẽ tạo điều kiện để hình thành năng suất cao cho các cây trồng. Nước ta là một nước nông nghiệp nhiệt đới, chịu ảnh hưởng của gió mùa, khí hậu ven biển và là nước có nền nông nghiệp rất đa dạng về cơ cấu cây trồng, giống, nhiều chế độ luân canh, xen canh, gối vụ, nhiều mùa vụ, với những phương thức canh tác khác nhau. Nhiều biến động xảy ra do khí hậu, thời tiết dẫn đến biến động trong các hệ sinh thái nông nghiệp, đặc biệt là các quần thể sinh vật hại, nấm gây bệnh cho cây trồng. Vì vậy, người nông dân luôn phải ứng phó với những khó khăn không những về biến đổi thời tiết, khí hậu mà còn phải bảo vệ cây trồng, mùa màng khỏi bị dịch bệnh, sâu hại, cỏ dại và chuột phá hoại. Vai trò của công tác BVTV, trong đó thuốc BVTV là công cụ, phương tiện quan trọng đắc lực của nông dân nhằm đảm bảo được năng suất cao, mùa màng bội thu, tránh được sâu hại phá hoại mùa màng. Trong quá khứ đã có những mùa vụ mất trắng, do sâu bệnh phá hoại, đời sống của nhiều hộ nông dân bị thiếu đói, đây cũng là tâm lý chung của nhiều nông dân “càng phun thuốc nhiều lần thì càng tốt” khi họ chưa có hiểu biết nhiều về kiến thức sử dụng hoá chất BVTV. Hiện nay, đánh giá của các nhà khoa học về thuốc BVTV cũng có sự khác nhau. Ngoài tác dụng diệt trừ sâu hại, cỏ dại nâng cao năng suất mùa Vương Thị Lan Hương 11 Khoa Sinh_KTNN Khóa luận tốt nghiệp màng, thì thuốc BVTV được toàn thế giới cảnh báo là nguy cơ gây tác hại lớn cho sức khoẻ con người và làm ô nhiễm môi trường, nhưng biện pháp sử dụng thuốc hoá học vẫn là thói quen của bà con nông dân bởi nó mang lại hiệu quả tức thì trong sản xuất nông nghiệp. Theo ước tính của các nhà khoa học thì mỗi năm sâu bệnh, cỏ dại có thể làm giảm giá trị sản lượng nông nghiệp 30%, thậm chí đến 50%. Riêng ở Việt Nam mức thiệt hại mỗi năm khoảng 3.600 tỷ đồng. Lượng thuốc BVTV sử dụng trên thế giới và ở nước ta vẫn không suy giảm và ngày càng gia tăng. Theo thống kê của GIFAP, thế giới tiêu thụ thuốc BVTV với giá trị 22,4 tỷ USD (năm 1992); 27,8 tỷ USD (năm 1998) và năm 2000 tiêu thụ 29,2 tỷ USD. Tuy nhiên, bất chấp khoản đầu tư hàng năm trên 26 tỷ USD cho 2,5 triệu tấn thuốc BVTV, cộng với chi phí sử dụng các biện pháp sinh học và không hóa chất khác, khoảng 40% sản lượng lương thực thế giới vẫn bị mất đi vì cỏ dại và sâu bệnh. Giá trị lương thực bị mất đi hàng năm ước tính khoảng 244 tỷ USD. Nhưng nếu không có thuốc BVTV và các biện pháp khác thì thiệt hại do sâu bệnh và cỏ dại gây ra sẽ còn nghiêm trọng hơn. Khi đó sự mất mùa màng của toàn thế giới hàng năm có thể lên đến 70% (xấp xỉ 400 tỷ USD) và tất nhiên sẽ ảnh hưởng lớn đến việc cung cấp lương thực của thế giới [4]. * Một số nguyên nhân mà các nước trên thế giới đã phải tăng số lần sử dụng HCBVTV [ 4]: - Giết hại những kẻ thù tự nhiên của một số sâu bệnh do sử dụng thuốc trừ sâu, khiến lượng thuốc sử dụng phải tăng lên. - Việc giảm luân canh, tăng sự độc canh một số loại cây trồng theo yêu cầu thị trường. - Sự sử dụng các chế phẩm trừ sâu bệnh và diệt cỏ một cách tràn lan kể cả theo công nghệ phun bằng máy bay. - Các hãng chế biến và buôn rau quả ngày càng chú trọng vào các “tiêu Vương Thị Lan Hương 12 Khoa Sinh_KTNN Khóa luận tốt nghiệp chuẩn thẩm mỹ” của sản phẩm nên đã kích thích nông dân sử dụng các chế phẩm BVTV ngày càng tăng chủng loại và số lượng cũng như độc tính . Từ khi nền nông nghiệp Việt Nam bắt đầu sử dụng thuốc BVTV rộng rãi trên đồng ruộng để bảo vệ cây trồng, lần đầu dập tắt dịch sâu gai hại lúa vùng đồng bằng Bắc Bộ (1958-1962) cho đến nay thuốc BVTV được coi là biện pháp quan trọng nhất trong việc phòng chống dịch hại và sâu bệnh trên đồng ruộng. Sự phát triển của nông nghiệp Việt Nam, đặc biệt là sản xuất lương thực, thực phẩm đã đạt được những thành tựu to lớn như hiện nay thì không thể không kể đến vai trò quan trọng của thuốc BVTV. Vấn đề đặt ra hiện nay đối với vai trò, vị trí của công tác BVTV nói chung và vị trí của thuốc BVTV nói riêng trong sản xuất nông nghiệp là phải tiếp cận nhanh với những tiến bộ của Khoa học - Công nghệ Thế giới, áp dụng vào thực tiễn nước ta, nâng cao nhận thức, hiểu biết của nông dân trong việc quản lý và sử dụng thuốc BVTV kết hợp với các biện pháp canh tác tổng hợp để khắc phục những ảnh hưởng xấu đối với sức khoẻ con người và môi trường [4]. 2.2. Phân loại thuốc bảo vệ thực vật và các đặc tính của chúng [ 6] Thuốc BVTV hay hóa chất BVTV là những hợp chất độc nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp hóa học được dùng để phòng chống, diệt trừ, xua đuổi hoặc giảm nhẹ do dịch hại gây ra cho cây trồng. 2.2.1. Phân loại thuốc BVTV Có nhiều cách để phân loại thuốc BVTV như sau: * Theo đối tượng phòng trừ + Thuốc trừ sâu: là những thuốc phòng trừ các loại côn trùng gây hại cây trồng, nông sản, gia súc, con người . + Thuốc trừ bệnh: là những thuốc phòng trừ các loài vi sinh vật gây bệnh cho cây (nấm, vi khuẩn, tuyến trùng) . Vương Thị Lan Hương 13 Khoa Sinh_KTNN Khóa luận tốt nghiệp + Thuốc trừ cỏ: là những thuốc phòng trừ các loài thực vật, rong, tảo, mọc lẫn với cây trồng, làm cản trở đến sinh trưởng cây trồng . + Thuốc trừ chuột: là những thuốc dùng phòng trừ chuột và các loại gặm nhấm khác. + Thuốc trừ nhện: là những thuốc chuyên dùng phòng trừ các loài nhện hại cây trồng. Ngoài ra còn có các loại thuốc trừ tuyến trùng, thuốc trừ ốc sên, thuốc điều tiết sinh trưởng cây trồng (còn gọi là thuốc kích thích sinh trưởng),… * Phân loại theo gốc hóa học + Nhóm Clo hữu cơ: trong thành phần hóa học có chất Clo (Cl). Nhóm này có độ độc cấp tính thấp nhưng tồn lưu lâu trong cơ thể người, động vật và môi trường, gây độc mãn tính nên nhiều sản phẩm đã bị hạn chế và cấm sử dụng. Các chất điển hình là DDT, Aldin, Lindan, Thiordan, Heptaclor,... + Nhóm Lân hữu cơ: là những dẫn xuất của axit photphoric. Nhóm này có thời gian bán phân hủy trong môi trường tự nhiên nhanh hơn nhóm clo hữu cơ. Các chất điển hình là Monocrotophos, Clorphenphot, Clorophos, Malathion, Acephat. + Nhóm Carbamat: là dẫn xuất của axit Carbamat, hóa chất thuộc nhóm này thường ít bền vững trong môi trường tự nhiên nhưng lại có độc tính rất cao với người và độc vật. Thuộc nhóm này gồm có Padan, Furadan, Bassa,... + Nhóm Pyrethroid (Cúc tổng hợp): là nhóm thuốc tổng hợp dựa vào cấu tạo chất Pyrethrin có trong hoa của cây Cúc sát trùng. Hoạt chất này có tác dụng nhanh, phân hủy dễ dàng, ít gây độc cho người và gia súc. Các chất điển hình như: Sherpa, Permethrin, Cypermethrin... + Nhóm thuốc chứa các kim loại nặng (KLN): Các hợp chất hữu cơ được gắn thêm các KLN vào. Nhóm này tác động trực tiếp vào hệ thần kinh hoặc ngấm vào màng tế bào làm tế bào ngừng hoạt động. Khi phân giải, các Vương Thị Lan Hương 14 Khoa Sinh_KTNN Khóa luận tốt nghiệp KLN lại được giải phóng và lại một lần nữa gây độc, tiêu diệt tiếp côn trùng vừa được phục hồi. + Nhóm thuốc trừ sâu sinh học: thường tập trung ở ba nhóm vi khuẩn, vi nấm, virus, ... điển hình là Bacillus thuringensic (BT) [4]. * Theo tính độc của thuốc BVTV - Độ độc cấp tính: thuốc xâm nhập vào cơ thể gây nhiễm độc tức thời gọi là nhiễm độc cấp tính. Độ độc cấp tính của thuốc được biểu thị qua liều gây chết trung bình, viết tắt là LD50 (Letal dosis), tức là liều thuốc ít nhất có thể gây chết cho 50% số cá thể vật thí nghiệm (thường là chuột), được tính bằng mg hoạt chất/kg trọng lượng cơ thể. - Độ độc mãn tính: nhiều loại thuốc có khả năng tích lũy trong cơ thể người và động vật máu nóng, gây đột biến tế bào, kích thích tế bào khối u ác phát triển, gây bệnh ung thư [6]. * Theo độ bền của thuốc đối với khả năng phân hủy - Rất bền (thời gian phân hủy thành các hợp phần không độc >2 năm); - Bền (6 tháng đến 24 tháng) - Tương đối bền (2000 >3000 2.2.2. Đặc tính của hóa chất BVTV Hóa chất BVTV chủ yếu là các phân tử hữu cơ nhỏ, được áp dụng rộng rãi bằng hình thức phun trên lá hoặc rơi trực tiếp xuống đất nên chúng được gọi là nguồn gây ô nhiễm diện trong đất. Các hóa chất BVTV thường là các hóa chất độc, khả năng tồn dư lâu trong đất, tác động tới môi trường đất sau đó đến sản phẩm nông nghiệp, đến động vật và người theo kiểu tích tụ, ăn sâu, bào mòn. Thời gian bán phân hủy của một loại thuốc BVTV là chỉ tiêu được dùng để biểu thị mức độ và thời gian tồn tại của một loại thuốc BVTV trong đất, nước, thực vật và môi trường. Mỗi loại thuốc BVTV có thời gian tồn tại trong môi trường dài hay ngắn được gọi là tính bền vững . Các loại thuốc BVTV sau khi được phun rải lên cây, lên đất, thuốc đã chịu tác động của nhiều yếu tố trong môi trường nên đã xảy ra sự giảm mất của thuốc. Lượng thuốc đã bị giảm dần do: bị bay hơi, bị nước cuốn trôi (theo bề mặt hoặc theo phẫu diện đất) hoặc bị hấp phụ vào đất, bị phân rã, bị chuyển hóa thành những hợp chất khác. Sự phân rã của thuốc có thể xảy ra do tác động của các yếu tố vô sinh (độ ẩm, ánh sáng, oxy,...) và yếu tố sinh học, như tác động của men thực vật, của vi sinh vật đất, thực vật...[6]. 2.3. Thực trạng sử dụng thuốc BVTV trong sản xuất nông nghiệp Sử dụng hóa chất BVTV được coi là biện pháp quan trọng trong sản xuất nông nghiệp góp phần vào việc bảo vệ và tăng năng suất cây trồng trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Bên cạnh những lợi ích to lớn về mặt kinh tế, xã hội, hóa chất BVTV cũng là nguy cơ đối với môt trường, chất lượng nông sản và sức khỏe con người. Trong những năm qua, việc quản lý và sử dụng thuốc BVTV nổi lên những vấn đề sau: 2.3.1. Lƣợng thuốc BVTV tiêu thụ ngày càng tăng [8] [9] Vương Thị Lan Hương 18 Khoa Sinh_KTNN Khóa luận tốt nghiệp Hiện nay, biện pháp sử dụng thuốc BVTV phòng trừ sâu bệnh cây trồng trong sản xuất nông nghiệp ở nước ta vẫn là biện pháp chủ yếu áp dụng rộng rãi đối với tất cả các loại cây trồng. Số lượng thuốc BVTV sử dụng hàng năm khoảng 40.000 - 48.000 tấn thương phẩm, diện tích gieo trồng có sử dụng thuốc BVTV đã lên tới 95%. Theo Đào Trọng Ánh (2002), năm 1990 lượng thuốc BVTV nhập khẩu vào nước ta khoảng 15.000 tấn, giá trị khoảng 9 triệu USD. Theo thống kê của Cục BVTV, Tổng cục Thống Kê và Tổng cục Hải Quan thì lượng thuốc nhập khẩu vào Việt Nam từ năm 1991 đến năm 2004 có sự biến động tăng, giảm qua các năm nhưng nhìn chung ngày càng tăng. Đến năm 2004 lượng thuốc BVTV nhập khẩu lên đến 48.288 tấn, tăng gấp hơn 3 lần so với năm 1990 [9]. Trong số thuốc BVTV, lượng thuốc sâu không có xu hướng tăng lên nhưng cũng không giảm trong khi đó lượng thuốc trừ bệnh tăng. Tuy nhiên, đây chỉ là con số thống kê theo đường nhập khẩu chính thức, thực tế lượng thuốc nhập lậu cũng không nhỏ trong đó có cả thuốc bị hạn chế hay cấm sử dụng như Methamidophos, Methylparathion, DDT,… 2.3.2. Chủng loại thuốc BVTV sử dụng ngày càng nhiều Trong những năm qua, cùng với việc mở rộng diện tích, sự chuyển dịch cơ cấu và quá trình đầu tư thâm canh tăng năng suất các loại cây trồng đặc biệt là việc sử dụng ngày càng nhiều giống lúa Trung Quốc diện tích nhiễm sâu bệnh ngày càng tăng. Theo danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng ở Việt Nam, trước năm 1992 đã có 92 chế phẩm của 77 hoạt chất được đăng ký sử dụng ở Việt Nam và đến năm 2002 có khoảng 959 thương phẩm của 339 hoạt chất đã được đăng ký sử dụng. Như vậy, chỉ trong 10 năm số thương phẩm đã tăng trên 10 lần. Năm 2005 đã có trên 1403 thương phẩm của trên 491 hoạt chất được sử dụng [ 2]. Một điều đáng chú ý nữa là tỷ lệ thuốc trừ sâu nhập khẩu đã giảm Vương Thị Lan Hương 19 Khoa Sinh_KTNN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét