Thứ Hai, 28 tháng 3, 2016

Ứng dụng một số trò chơi vận động nhằm phát triển sự khéo léo cho học sinh khối 10 trường THPT mỹ hào hưng yên

4 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi THPT 1.1.1. Đặc điểm tâm lí * Đặc điểm tâm lí chung Về mặt tâm lí các em thích chứng tỏ mình là người lớn, muốn để cho mọi người tôn trọng mình, đã có một trình độ nhất định, có khả năng phân tích tổng hợp, muốn hiểu biết, có hoài bão nhưng còn nhiều nhược điểm và thiếu kinh nghiệm trong cuộc sống. Tuổi này, chủ yếu là tuổi hình thành thế giới quan, tự ý thức và hướng tới tương lai, là tuổi đầy nhu cầu sáng tạo, nảy nở những tình cảm mới. Đó cũng là tuổi có những ước mơ độc đáo và mong cho cuộc sống tốt đẹp hơn. * Đặc điểm tâm lí học tập Hoạt động học tập của học sinh THPT đòi hỏi tính năng động, tính độc lập ở mức độ cao hơn nhiều so với học sinh THCS. Đồng thời cũng đòi hỏi phát triển tư duy lí luận để nắm vững nội dung một cách sâu sắc. Ở lứa tuổi này các em đã biết cách ghi nhớ có hệ thống, đảm bảo tính tư duy lô gic, tính chặt chẽ, hiểu được vấn đề cần học tập. Do đặc điểm của trí nhớ đối với lứa tuổi học sinh THPT khá tốt nên giáo viên có thể sử dụng phương pháp trực quan, kết hợp giảng giải sâu sắc các chi tiết, kĩ thuật động tác, giúp các em hiểu được vai trò, ý nghĩa của GDTC để các em có thể tự tập luyện một cách độc lập trong thời gian nhàn rỗi. Các phẩm chất ý chí rõ ràng hơn và mãnh mẽ hơn các lứa tuổi trước đó. Các em có thể hoàn thành những bài tập khó và đòi hỏi sự cố gắng lớn trong tập luyện. 5 1.1.2. Đặc điểm sinh lí * Hệ thần kinh: Được tiếp tục phát triển đi đến mức hoàn thiện, khả năng tư duy, khả năng phân tích trừu tượng hoá phát triển tạo thuận lợi cho việc hình thành nhanh chóng phản xạ có điều kiện. Đây là đặc điểm thuận lợi để các em nhanh chóng tiếp thu và hoàn thiện kỹ thuật động tác. Tuy nhiên một số bài tập mang tính đơn điệu, không hấp dẫn cũng làm cho các em chóng mệt mỏi. Cần thay đổi nhiều hình thức tập luyện một cách phong phú, đặc biệt tăng cường các hình thức thi đấu, trò chơi để gây hứng thú, tạo điều kiện hoàn thành tốt các bài tập chính, nhất là các bài tập về sự khéo léo. Ngoài ra do sự hoạt động mạnh của tuyến giáp, tuyến sinh dục, hưng phấn và ức chế không cân bằng đã ảnh hưởng đến hoạt động thể lực. Đặc biệt là các em nữ, tính nhịp điệu giảm sút nhanh chóng, khả năng chịu đựng lượng vận động yếu. Vì vậy, giáo viên cần sử dụng trò chơi thích hợp và thường xuyên quan sát phản ứng cơ thể của học sinh để có biện pháp giải quyết kịp thời. * Hệ vận động: Hệ xương phát triển mạnh ở nam, ở nữ bắt đầu giảm tốc độ phát triển. Mỗi năm, nữ cao thêm 0,5 đến 1cm. Tập luyện TDTT một cách liên tục làm cho xương khỏe mạnh hơn. Ở lứa tuổi học sinh THPT, các xương nhỏ như xương tay, xương bàn tay hầu như đã hoàn thiện nên các em có thể tập một số động tác trèo, chống, mang vác nặng mà không làm tổn hại hoặc không tạo sự phát triển lệch lạc của cơ thể. Cột sống đã ổn định hình dáng nhưng vẫn chưa được hoàn thiện, vẫn có thể cong vẹo nên việc tiếp tục bồi dưỡng tư thế chính xác thông qua các hệ thống bài tập như đi, chạy nhảy, thể dục nhịp điệu, thể dục cơ bản cho các em là rất cần thiết và không thể xem nhẹ. Riêng đối với các em nữ, xương xốp hơn các em nam, ống tuỷ rỗng hơn, chiều dài ngắn hơn, bắp thịt nhỏ hơn và yếu hơn, nên xương của nữ không khỏe bằng nam. Đặc biệt, xương chậu của nữ to hơn và yếu hơn. Vì thế, trong GDTC không thể sử dụng các bài tập có khối lượng vận động, cường độ vận động như nam và phải có sự phù hợp đặc điểm giới tính. 6 * Hệ cơ: Các tổ chức cơ phát triển muộn hơn xương nên sự co cơ vẫn tương đối yếu. Các cơ bắp lớn phát triển tương đối nhanh (cơ đùi, cơ cánh tay) còn các cơ nhỏ, cơ bàn tay phát triển chậm hơn. Các cơ co phát triển sớn hơn các cơ duỗi, các cơ duỗi của nữ lại càng yếu. Đặc biệt, tuổi 16 các tổ chức mỡ dưới da phát triển nhanh - mạnh. Nói chung, cuối thời kỳ học sinh THCS và đầu thời kỳ học sinh THPT thường nữ 13 đến 15 tuổi là thời kỳ cơ bắp phát triển mạnh nhất, đối với nam lực cơ phát triển mạnh nhất ở tuổi 16 Do những đặc điểm kể trên nên các trò chơi phải đảm bảo nguyên tắc vừa sức, đảm bảo cho tất cả các loại cơ to nhỏ đều được phát triển. * Hệ tuần hoàn: Hệ tuần hoàn của học sinh THPT đang phát triển và đi đến hoàn thiện. Buồng tim phát triển tương đối hoàn chỉnh, mạch đập của nam vào khoảng 70 đến 80 nhịp/phút, nữ 75 đến 85 nhịp/phút. Hệ thống điều hòa vận động mạch phát triển tương đối hoàn chỉnh. Phản ứng của hệ tuần hoàn trong vận động mạch tương đối phát triển và huyết áp phục hồi nhanh chóng. Khi sử dụng các trò chơi vận động có khối lượng và cường độ vận động lớn cần phải thận trọng và thường xuyên kiểm tra, theo dõi sức khỏe của học sinh, tránh để các em ham chơi quá sức dẫn đến mệt mỏi. * Hệ hô hấp: Đã phát triển và tương đối hoàn thiện, vòng ngực trung bình của nam từ 67 đến 72cm, nữ từ 69 đến 74cm, gần bằng tuổi trưởng thành. Dung lượng phổi tăng lên nhanh chóng từ lúc 15 tuổi là 2 đến 2,5 lít đến 16 - 18 tuổi là 3 đến 4 lít. Tần số hô hấp giống như người lớn, 10 đến 20 lần/phút. Tuy nhiên các cơ vẫn còn yếu, nên sự co giãn của lồng ngực nhỏ, chủ yếu là co giãn cơ hoành, trong tập luyện cần thở sâu và chú ý thở bằng ngực. Từ sự nghiên cứu, tìm tòi dựa trên cơ sở lí luận và thực tế, nhận thức được vai trò to lớn của GDTC, theo sự chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về công tác GDTC đối với học sinh, trong quá trình giảng dạy chúng tôi đã lựa chọn và ứng dụng một số trò chơi vận động nhằm phát triển sự khéo léo cho học sinh khối 10 trường THPT Mỹ Hào, góp phần nâng cao chất lượng công 7 tác GDTC. Các em rất hào hứng, vui chơi, tham gia nhiệt tình, xua tan căng thẳng, giúp minh mẫn hơn trong những giờ học tiếp theo. Kích thích các em suy nghĩ, sáng tạo không chỉ trong giờ học thể dục mà cả các giờ học khác, một phần khắc phục được những nhược điểm như trên mà chúng tôi vừa nêu. Học sinh thêm yêu trường, yêu lớp, yêu thầy cô gia đình và bạn bè hơn. Các em hào hứng trong những giờ thể dục. Đó là những giờ được chơi trò chơi vận động, là những giờ các em được rèn luyện GDTC. Ở đó, các em rèn luyện được sự nhanh nhẹn, khéo léo... hỗ trợ cho những kỹ năng trong cuộc sống, các em được giao lưu học hỏi, tình bạn bè, tinh thần đoàn kết được nâng cao, tích lũy được nhiều hiểu biết từ các trò chơi đem lại, từ các tố chất thể lực, đến các phẩm chất đạo đức. Vì vậy trong phạm vi khóa luận này, tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu những trò chơi mang tính chất vận động thể lực và đặc biệt chú ý tới sự phát triển khả năng khéo léo của học sinh khối 10, từ đó đưa ra một số ứng dụng có hiệu quả trong công tác GDTC trường THPT Mỹ Hào nói riêng và ở các trường THPT nói chung. 1.2. Cơ sở lí luận của tố chất khéo léo 1.2.1. Đặc điểm của sự khéo léo Sự khéo léo (hay còn gọi là năng lực phối hợp vận động) là năng lực học, hoàn thiện và củng cố một cách nhanh chóng và vững chắc các kĩ thuật vận động. Nếu như các năng lực sức nhanh, sức mạnh, sức bền dựa trên cơ sở hệ thống thích ứng về mặt năng lượng thì sự khéo léo dựa trên cơ sở của hệ thống thích ứng của các quá trình điều khiển hành động vận động. Việc xác định năng lực vận động về cơ bản được dựa trên cơ sở lí luận của tâm lý học hiện đại về khái niệm năng lực và dựa trên cơ sở học thuyết vận động. Theo các quan điểm này năng lực phối hợp vận động là một phức hợp các tiền đề của học sinh để thực hiện thắng lợi một hoạt động nhất định. 8 Năng lực này được xác định trước hết thông qua các quá trình điều khiển và được học sinh hình thành và phát triển trong tập luyện. Năng lực phối hợp vận động có quan hệ chặt chẽ với các phẩm chất tâm lí và năng lực khác như sức mạnh, sức nhanh, sức bền... Căn cứ vào đặc điểm các loại hoạt động thể thao và yêu cầu riêng của chúng về sự khéo léo, người ta phân thành bảy loại: Năng lực liên kết vận động là năng lực liên kết các hoạt động của từng bộ phận cơ thể, các phần của động tác trong mối quan hệ với hoạt động chung của cơ thể theo mục đích hành động nhất định. Nó thể hiện sự kết hợp các yếu tố về không gian, thời gian và dùng sức trong quá trình vận động. Năng lực định hướng là năng lực xác định sự thay đổi tư thế và hoạt động của cơ thể trong không gian và thời gian: Trên sân thi đấu, trên dụng cụ... Năng lực thăng bằng là năng lực ổn định trạng thái thăng bằng của cơ thể (thăng bằng tĩnh) hoặc duy trì và khôi phục nó trong và sau khi thực hiện động tác (thăng bằng động). Năng lực nhịp điệu là năng lực nhận biết được sự luân chuyển của các đặc tính chuyển động trong quá trình một động tác hoặc thể hiện nó trong khi thực hiện động tác. Năng lực phản ứng là năng lực dẫn truyền nhanh chóng và thực hiện các phản ứng vận động một cách hợp lí và thời gian ngắn nhất đối với một tín hiệu (đơn giản hoặc phức tạp). Năng lực phân biệt vận động là năng lực thực hiện động tác một cách chính xác cao và tinh tế từng hoạt động riêng lẻ, từng giai đoạn của quá trình đó. Năng lực này thể hiện ở sự phân biệt có ý thức và chính xác các thông số thời gian, không gian và dùng sức trong hoạt động vận động của người tập. Năng lực thích ứng vận động là năng lực chuyển chương trình hành động phù hợp với tình huống mới hoặc tiếp tục thực hiện hành động đó theo 9 phương thức khác dựa trên cơ sở tri giác sự thay đổi tình huống hoặc dự đoán sự thay đổi đó. Sự phân biệt các năng lực phối hợp riêng lẻ không phải vì chúng độc lập với nhau mà ngược lại, do chúng có mối quan hệ khăng khít và thống nhất tạo thành một tập hợp tiền đề cho các hoạt động thể thao khác nhau. Sự phân biệt rõ đặc điểm của từng năng lực và cơ sở sinh học của chúng tạo điều kiện thuận lợi để lựa chọn các phương tiện và phương pháp thích hợp nhằm phát triển các năng lực này một cách hiệu quả. 1.2.2. Ý nghĩa của tố chất khéo léo đối với các em học sinh khi học các môn thể thao Sự khéo léo có ý nghĩa đặc biệt với các môn thể thao chứa các đặc điểm sau: - Có kĩ thuật và yêu cầu phối hợp vận động phức tạp như thể dục dụng cụ, thể dục nghệ thuật... - Đòi hỏi phải học một khối lượng lớn kĩ thuật vận động và phải có vốn kĩ xảo vận động phong phú: Thể dục dụng cụ, võ, các môn bóng... Năng lực phối hợp vận động được phát triển tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc học và hoàn thiện nhanh chóng các kĩ thuật thể thao. Học sinh có trình độ phát triển cao về năng lực phối hợp vận động sẽ tiếp thu nhanh chóng kĩ thuật của các môn thể thao khác. Trong đời sống có thể nhanh chóng tiếp thu và thực hiện có hiệu quả cao các kĩ năng lao động, sản xuất và chiến đấu. 1.2.3. Phương pháp phát triển sự khéo léo Việc lựa chọn các phương tiện tập luyện nhằm phát triển sự khéo léo cần phải tuân theo một số nguyên tắc sau: - Phương pháp chính là tập luyện, phương tiện chính là các bài tập thể lực, đòi hỏi có sự phối hợp vận động phức tạp từ thấp đến cao. Năng lực chỉ phát triển thông qua hoạt động. Do vậy muốn phát triển sự khéo léo phải thông qua sự tập luyện một cách tích cực, thông qua

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét