Thứ Tư, 23 tháng 3, 2016

Vấn đề phát huy vai trò của người phụ nữ trong gia đình ở việt nam hiện nay

Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo dục Chính trị NỘI DUNG Chƣơng 1 LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG GIA ĐÌNH VÀ VAI TRÒ CỦA NGƢỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG GIA ĐÌNH 1.1. Một số vấn đề lý luận về vai trò của ngƣời phụ nữ trong gia đình 1.1.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác-xít về vai trò của người phụ nữ trong gia đình Trước khi học thuyết Mác ra đời, vai trò của người phụ nữ trong gia đình cũng có những tư tưởng quan tâm nghiên cứu, bởi họ không những được tôn vinh là phái đẹp mà với thiên chức làm mẹ, làm vợ, làm người công dân hữu ích, họ còn có vai trò to lớn trong gia đình và ngoài xã hội. Tuy nhiên, dưới chế độ tư hữu, đối với phụ nữ luôn tồn tại một nghịch lí: vai trò to lớn, nhưng địa vị thấp hèn cả trong gia đình và ngoài xã hội. Họ luôn chịu cảnh bất bình đẳng với nam giới, bị bóc lột thậm tệ, tha hóa. Các hình thức bất bình đẳng và áp bức phụ nữ tuy có thay đổi trong từng thời kì lịch sử, nhưng bản chất của sự bất bình đẳng không hề thay đổi. Để bảo vệ nhà nước thống trị, các nhà tư tưởng của giai cấp bóc lột cố biện hộ điều đó bằng cách viện đến “giá trị không đầy đủ” của người phụ nữ, viện đến chức năng làm mẹ vốn có của người phụ nữ. Trái lại với quan điểm lấy con người làm xuất phát điểm, khi tạo lập hệ thống lý luận của mình về xã hội, các nhà triết học Khai sáng như: Điđơrô, J.Rút-xô đã phê phán quyền độc đoán của giai cấp phong kiến những phong tục bất bình đẳng, những tệ nạn xã hội đã xô đẩy người phụ nữ đến những sinh hoạt phóng túng, còn thực chất, phẩm hạnh của người phụ nữ nói chung là đúng đắn. Phuriê nhà XHCN không tưởng nổi tiếng ở Pháp thế kỷ thứ XIX cho rằng “Làm ô nhục người phụ nữ là nét căn bản và tiêu biểu của thời đại văn minh cũng như thời đại dã man”. Rằng, “Giải phóng phụ nữ là thước đo trình độ giải phóng xã hội”. Vấn đề đặt ra là: làm thế nào để giải phóng người phụ nữ thoát khỏi thân phận nô lệ và địa vị thấp hèn, để họ làm tròn thiên chức của mình trong gia đình và ngoài xã hội. Do hạn chế về thế giới quan và bị quy định bởi hoàn cảnh lịch sử, các nhà tư tưởng tiến bộ đương thời, Phùng Thị Ngà 11 K34B - GDCD Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo dục Chính trị dù có nỗ lực vượt bậc, cũng không thể vượt qua được những hạn chế mà chính thời đại họ chưa cho phép. Chỉ đến thời đại của C.Mác và Ph.Ăngghen, do kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất, với thiên tài trí tuệ của mình, Mác – Ăngghen đã thực hiện được một cuộc cách mạng trong địa hạc lý luận về vấn đề vai trò của người phụ nữ trong gia đình gắn với sự nghiệp giải phóng phụ nữ với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản chống lại ách nô dịch của CNTB và các thế lực phản động. Nghiên cứu lịch sử xã hội loài người, Mác – Ăngghen đã chỉ ra rằng: trong xã hội có giai cấp đối kháng, phụ nữ là nạn nhân trực tiếp của sự áp bức giai cấp và của sự bất bình đẳng trong gia đình và trong xã hội. Ở thời tiền sử, do trình độ lực lượng sản xuất còn thấp kém, cuộc sống cộng đồng nguyên thủy đã tạo nên một hình thức gia đình theo chế độ quần hôn. Trong kiểu gia đình này, vì quần hôn, nên dòng dõi chỉ được xác định theo mẹ, mọi thành viên trong gia đình đều bình đẳng. Song, do phụ nữ nắm quyền quản lý kinh tế trong gia đình nên họ được tôn vinh và chế độ mẫu quyền đã tồn tại trong một thời gian dài. Sản xuất ngày càng phát triển, của cải ngày một dồi dào, chế độ tư hữu ra đời, đó là “thắng lợi của sở hữu tư nhân đối với sở hữu công cộng nguyên thủy và tự phát” [24, tr.105]. Sự thắng lợi của chế độ tư hữu cũng chính là sự thất bại của chế độ mẫu quyền. Ăngghen cho rằng: “đây là sự thất bại lịch sử có tính chất toàn thế giới của phụ nữ”. Bởi thế, trong nhà, quyền cai quản đã thuộc về đàn ông, người đàn bà bị biến thành nô lệ, thành công cụ sinh đẻ đơn thuần. Cũng từ thất bại lịch sử này, gia đình trở thành đơn vị kinh tế riêng lẻ, kết cấu, quy mô thu hẹp hơn. Sự ra đời của chế độ tư hữu dẫn đến tình trạng áp bức, nô dịch của giai cấp có của đối với giai cấp không có của. Sự nô dịch ấy trùng với sự nô dịch của đàn ông với đàn bà. Ăngghen đã chỉ rõ “sự áp bức giai cấp đầu tiên trùng với sự nô dịch của đàn ông với đàn bà” [24, tr.106], từ đây trong gia đình người phụ nữ trở nên phụ thuộc hoàn toàn về kinh tế, về người chồng, người cha, phải phục tùng tuyệt đối quyền lực của người chồng “thậm chí người chồng có giết vợ cũng chỉ là để thực Phùng Thị Ngà 12 K34B - GDCD Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo dục Chính trị hiện quyền lực của mình mà thôi” [24, tr.96]. Họ trở thành đầy tớ chính trong gia đình, không được tham gia vào nền sản xuất xã hội. Như vậy, người phụ nữ bị tha hóa cả trong gia đình và ngoài xã hội. Tất nhiên, theo sự phát triển của lịch sử xã hội, trong các xã hội dựa trên chế độ tư hữu, với sự biến đổi của các hình thức hôn nhân, hình thức phụ thuộc của người phụ nữ vào chồng có sự thay đổi. Ở thời đại mông muội có chế độ quần hôn, thời đại dã man có hôn nhân cặp đôi, ở thời đại văn minh có chế độ hôn nhân một vợ một chồng được bổ sung bằng tệ ngoại tình và mại dâm. Từ chế độ quần hôn chuyển sang hôn nhân cặp đôi thực hiện chủ yếu là nhờ phụ nữ. Chế độ CSNT tan rã, dân số tăng nhanh, những quan hệ tính giao lúc này đã mất hết tính ngây thơ nguyên thủy. Vì vậy, phụ nữ thiết tha mong muốn “được giữ trinh tiết để kết hôn nhất thời hay lâu dài với một người đàn ông, coi đây là được giải phóng” [24, tr.890]. Sự thay đổi các hình thức hôn nhân trong xã hội thể hiện sự tiến bộ của nhân loại, nhưng đồng thời cũng nói lên một thực tế là đàn bà ngày càng mất đi quyền tự do tính giao kiểu chế độ quần hôn, trái lại, đối với đàn ông quyền này vẫn được đảm bảo và tăng cường. Trong chế độ gia trưởng và chế độ TBCN, người đàn ông có quyền lấy nhiều vợ, có quyền ly dị vợ và có quyền ngoại tình. Luật pháp đã tạo mọi điều kiện cho đàn ông thả sức sử dụng “những xa xỉ phẩm của lịch sử”, miễn là người đó không dắt tình nhân về nhà mình. Trong xã hội TBCN thì quyền này của đàn ông được sử dụng dưới nhiều hình thức. Với quan niệm coi vợ “chẳng qua chỉ là một công cụ sản xuất đơn thuần, nên nếu phụ nữ mắc tội danh này họ sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc hơn bất cứ thời đại nào trước kia, còn các ông chủ tư bản thỏa sức dâm đãng với vợ và con gái GCVS và lấy việc cắm sừng lẫn nhau làm thú vui” [24, tr.102]. “Các ngài tư sản chưa thỏa mãn là sẵn có vợ, con của giai cấp vô sản, đó là chưa kể chế độ mại dâm công khai”, các ngài còn lấy việc “cắm sừng lẫn nhau làm thú vui đặc biệt” [22, tr.564]. Tình trạng này đã làm bại hoại đạo đức xã hội, “làm trụy lạc những người phụ nữ nào không may rơi vào đó” và “làm bại hoại nhân cách toàn thế giới đàn ông”. Phùng Thị Ngà 13 K34B - GDCD Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo dục Chính trị Như vậy, sự ra đời của chế độ tư hữu dẫn đến sự thống trị của đàn ông trong gia đình. Trên cơ sở sự thống trị của người đàn ông về kinh tế, tất cả mọi đau đớn, nhục nhã bất bình đẳng trong gia đình đều trút lên đầu người phụ nữ. Trong tác phẩm “Tình cảnh giai cấp công nhân Anh” Ănngghen đã chỉ ra rằng. Lao động của phụ nữ và trẻ em dưới chủ nghĩa tư bản là thứ lao động rẻ mạt. Sử dụng nguồn lao động này nhà tư bản luôn thu được món lợi kếch xù. Vì vậy, các ông chủ tư bản tìm mọi biện pháp để thải hồi nam công nhân và thu hút lao động của phụ nữ và trẻ em thế chân họ. Trong các công xưởng tư bản “Phụ nữ và trẻ em khối việc làm, nhưng lại không có việc cho đàn ông” [23, tr.488]. Kết quả là: “trong gia đình người vô sản, người vợ kiếm tiền nuôi sống cả nhà, người chồng thì trông con, quyét dọn nấu nướng”. Như vậy, chế độ TBCN, phụ nữ luôn ở trong tình trạng mâu thuẫn không lối thoát “Nếu làm tròn bổn phận phục vụ riêng cho gia đình thì phải đứng ngoài nền sản xuất xã hội và không có một thu nhập nào cả, ngược lại, nếu muốn tham gia công việc xã hội để kiếm sống một cách độc lập thì họ lại không có điều kiện làm tròn nhiệm vụ gia đình” [24, tr.118]. Mặt khác, do môi trường làm việc hỗn tạp, trình độ trí dục và đức dục thấp, nên hành vi thiếu văn hóa nhân cách là không tránh khỏi. Sự tha hóa nhân cách của người mẹ đã ảnh hưởng xấu đến thiên chức làm mẹ, làm vợ trong gia đình. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để giải phóng và phát huy vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội? Chính Mác và Ăngghen đã xem vấn đề giải phóng phụ nữ là nhiệm vụ, nội dung của cách mạng XHCN. Theo Mác và Ăngghen, mọi sự bất bình đẳng, áp bức với phụ nữ suy đến cùng là do chế độ tư hữu. Để giải phóng phụ nữ, vấn đề cơ bản là phải xóa bỏ cơ sở kinh tế của sự áp bức, đó là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Đồng thời phải xóa bỏ cơ sở xã hội của sự áp bức, đó là xóa bỏ sự đối kháng về giai cấp và sự phân chia xã hội thành giai cấp. Từ đó, tình trạng “vợ phụ thuộc chồng, con phụ thuộc vào cha mẹ” [22, tr.462], tệ nạn mại dâm công khai, cộng thê, những tệ nạn làm nhục mạ phẩm hạnh người phụ nữ cũng bị thủ tiêu. Phùng Thị Ngà 14 K34B - GDCD Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo dục Chính trị Trong tác phẩm “Những nguyên lý của CNCS” Ăngghen đã chỉ ra rằng: “Việc thủ tiêu chế độ tư hữu diễn ra một cách dần dần và chỉ khi nào tạo ra được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó (cải tạo xã hội TBCN) thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu” [22, tr.455]. Đó là quá trình cách mạng XHCN nhằm xây dựng nền kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, với nền sản xuất hiện đại, nền công nghiệp lớn. Khi tư liệu sản xuất đã trở thành của chung thì “Sự thống trị của người đàn ông trong gia đình và tính ràng buộc vĩnh viễn của hôn nhân không còn nữa, điều này sẽ tạo nên cơ sở để xây dựng một kiểu gia đình mới: gia đình bình đẳng giữa vợ và chồng, là gia đình mà hôn nhân dựa trên tình yêu chân chính, không bị lợi ích kinh tế của dòng họ chi phối”. Khi đó, đúng như Ăngghen dự đoán “một thế hệ đàn ông không bao giờ phải dùng tiền hoặc dùng những phương tiện quyền lực xã hội khác để mua sự hiến thân của người đàn bà và một thế hệ những người đàn bà không bao giờ phải hiến thân cho đàn ông vì một lí do nào khác ngoài tình yêu chân chính, hoặc phải từ chối không dám hiến mình cho người mình yêu vì những hậu quả kinh tế của sự hiến thân đó” [24, tr.131]. Đó là gia đình mà hạnh phúc cá nhân gắn chặt với hạnh phúc gia đình và “khi hôn nhân đã chết” sự “tồn tại của nó chỉ là bề ngoài giả dối” thì li hôn là điều tốt cho cả đôi bên và xã hội. Đó là gia đình hiểu theo nguyên nghĩa chứ không phải ý nghĩa lịch sử của danh từ đó. Chính cuộc cách mạng XHCN mới tạo ra điều kiện và đặt ra yêu cầu giải phóng phụ nữ và lôi cuốn toàn bộ phụ nữ tham gia vào nền sản xuất xã hội “Chỉ có thể là giải phóng phụ nữ khi người phụ nữ có thể tham gia sản xuất trên một quy mô xã hội rộng lớn và chỉ làm việc nhà rất ít” [24, tr.208], khi tư liệu sản xuất đã trở thành của chung thì gia đình không còn là đơn vị kinh tế riêng lẻ nữa. Vì vậy, công việc nuôi dạy con cái là công việc của xã hội, công việc nội trợ gia đình trở nên công nghiệp cho xã hội, do vậy người phụ nữ được giải phóng. Đương nhiên, vai trò phụ nữ trong gia đình không hề giảm đi, trái lại với vai trò ấy được nhân lên cùng với việc hoàn thành chức năng công dân của người phụ nữ. Phùng Thị Ngà 15 K34B - GDCD Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo dục Chính trị Là học trò xuất sắc của Mác và Ăngghen, Lênin đã phát triển học thuyết của Mác và Ăngghen trong gia đoạn lịch sử mới: giai đoạn CNTB chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn CNĐQ và giai đoạn XHCN từ lý luận thành hiện thực. Cũng như trong giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh, ở giai đoạn ĐQCN, địa vị của người phụ nữ cũng không thay đổi, thậm chí còn tồi tệ hơn. Đối lập với bên kia là một ít gia đình tư sản giàu có, lấy việc tăng lên của lợi nhuận làm mục tiêu là sự nghèo khổ bao trùm lên mọi tầng lớp xã hội. Trong những gia đình khốn khó này, phụ nữ là người sống đau khổ nhất. Vì muốn cả nhà được ăn no, mặc ấm, bằng một số tiền hết sức ít ỏi, nên chị em hàng ngày phải tính toán chi li, phải đầu tắt mặt tối với công việc “chỉ có sức lao động của mình là không hề tiếc”. “Họ sẵn sàng chấp nhận số tiền công hết sức rẻ mạt, để kiếm thêm cho bản thân hoặc gia đình một mẩu bánh mì”. Cùng quẫn, nhiều chị em rơi vào con đường cùng, nhục nhã họ phải bán thân nuôi miệng. Trước cảnh cùng quẫn đó, theo Lênin, phụ nữ vô sản không thể thụ động ngồi nhìn giai cấp tư sản có vũ trang đầy đủ bắn giết công nhân kém vũ trang. Ngày nay, để giải phóng mình, chỉ có một con đường duy nhất phụ nữ đứng lên cầm vũ khí, thủ tiêu sự áp bức nô dịch của CNTB, để tiến hành công cuộc xây dựng CNXH. Với sự tham gia nhiệt tình của quần chúng lao động, trong đó có phụ nữ đóng vai trò không nhỏ, cách mạng tháng Muời Nga thành công, nền chuyên chính Công Nông được xác lập. Điều kiện chính trị để giải phóng người lao động, giải phóng phụ nữ đã xuất hiện. Trong điều kiện lịch sử mới, Đảng Bôn sê vích và chính quyền Xô Viết mà đứng đầu là Lênin đã thực hiện từng bước sự nghiệp giải phóng phụ nữ với những nội dung sau: Một là, thực hiện quyền bình đẳng cho phụ nữ, Đảng Bôn sê vích và chính quyền Xô Viết chủ trương “Phụ nữ được bình đẳng với nam giới về mọi mặt” [10, tr.283]. Để thực hiện sự bình đẳng của phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đòi hỏi nhà nước phải thủ tiêu chế độ đẳng cấp, thực hiện quyền bình đẳng cho mọi công dân, không phân biệt trai gái trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Lênin cho rằng: “Trong các đạo luật của chính quyền Xô Viết, người ta không thấy có chút dấu vết gì về việc phụ nữ bị đối đãi bất bình đẳng” [20, tr.230]. Phùng Thị Ngà 16 K34B - GDCD

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét