Thứ Tư, 15 tháng 6, 2016

Chế độ ruộng đất thời lê sơ (1428 1527)

Có thể thấy rằng, việc mở rộng lãnh thổ như trên bên cạnh ý nghĩa tích cực trong việc khai hoang mở rộng diện tích đất đai, còn đặt ra cho nhà nước phong kiến những khó khăn, thách thức mới. Đó là làm sao phải có những chính sách phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với từng địa phương, vùng miền trong cả nước, trong đó ruộng đất của Nhà nước cũng cần có sự điều chỉnh cho phù hợp. Đây là vấn đề cấp bách đặt ra với nhà nước Lý – Trần – Hồ. 1.1.2. Tình hình kinh tế  Nông nghiệp Trong hàng loạt các vấn đề về kinh tế thì, ruộng đất là nguồn tư liệu sản xuất chính của nhân dân lao động, đặc biệt kinh tế nông nghiệp lại là ngành kinh tế chủ yếu của Đại Việt. Có củng cố và phát triển sản xuất nông nghiệp thì nhà nước mới đảm bảo nguồn lợi từ thuế ruộng đất để duy trì nguồn tài chính cho ngân sách nhà nước. Chính vì vậy, bên cạnh công việc xây dựng và củng cố chính quyền nhà nước phong kiến ở thế kỷ X – XIV còn đưa ra nhiều biện pháp tích cực nhằm khuyến khích, phát triển kinh tế nông nghiệp. Năm 1010, Lý Công Uẩn xuống chiếu bắt tất cả những người đào vong phải trở về quê cũ. Năm 1065, Lý Thánh Tông cho thực hiện chiếu khuyến nông vào đầu xuân, Vua thường tiến hành cày vài đường trong lễ “tịch điền” để khuyến khích nhân dân lao động sản xuất. Bên cạnh đó, nhà nước Lý – Trần ban hành nhiều đạo luật bảo vệ quyền tư hữu tài sản, đặc biệt là ruộng đất, bảo vệ trâu bò nhằm giữ gìn sức kéo trong nông nghiệp. Trong luật pháp nhà Lý có quy định “người ăn trộm trâu hoặc giết trộm trâu bò đều phải bồi thường trâu và phạt đánh 80 trượng”. [12, tr.143]. Trong lĩnh vực, công tác trị thủy và sửa chữa đê điều cũng được nhà nước phong kiến Việt Nam quan tâm. Năm 1077, nhà Lý cho đắp đê sông Như Nguyệt; Năm 1108, nhà Lý cho đắp đê Cơ Xá từ Yên Phụ đến Lương Yên. Luật nhà nước thời Trần coi việc xây dựng và sửa chữa đê điều là việc của toàn dân kể cả triều đình. Nhà nước Lý – Trần còn đặt các chức chánh phó Hà đê sứ để chuyên trông coi việc đắp đê. Đây là một việc làm có ý nghĩa rất lớn của nhà nước đối với nhân dân trong việc bảo vệ và sản xuất nông nghiệp. Nhà nước Lý – Trần – Hồ còn thực hiện chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp thông qua chủ trương khai hoang, mở rộng diện tích canh tác, từ đó củng cố cơ sở kinh tế và tài chính của nhà nước. Trong đó nguồn lợi từ thuế ruộng đất là một phần rất quan trọng trong những chủ trương của nhà nước. Như vậy, trong các thế kỷ X – XIV, nhà nước phong kiến Việt Nam rất chú trọng và quan tâm tới công tác trị thủy, thủy lợi, có nhiều biện pháp khuyến khích sản xuất nông nghiệp. Nhờ đó, nền kinh tế nông nghiệp được ổn định, cơ sở kinh tế tài chính của nhà nước từ tô thuế được củng cố, tạo cơ sở sức mạnh cho quốc gia trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm. Bên cạnh những điều kiện thuận lợi, kinh tế nông nghiệp trong giai đoạn này cũng có những khó khăn nhất định. Sau mỗi cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, nền kinh tế bị suy sụp và bị tàn phá nghiêm trọng. Sau chiến tranh đất bị bỏ hoang nhiều, tình trạng chấp chiếm ruộng đất của bọn quan lại ngoại bang diễn ra phổ biến, nhân dân phải bỏ làng mạc quê hương đi phiêu tán. Thực trạng trên ảnh hưởng không nhỏ đến tài chính quốc gia, vì vậy yêu cầu đặt ra đối với nhà nước phong kiến Việt Nam là làm cách nào để phục hồi ruộng đất hoang hóa, khôi phục kinh tế nông nghiệp để củng cố cơ sở kinh tế cho nhà nước, đảm bảo cho bộ máy nhà nước tồn tại lâu dài. Nhìn chung, kinh tế nông nghiệp có bước thăng trầm theo những biến cố của lịch sử dân tộc, những bước thăng trầm đó có ảnh hưởng trực tiếp tới nguồn lợi từ tô thuế ruộng đất của nhà nước phong kiến Việt Nam, chính vì vậy bằng mọi cách nhà nước đều có những biện pháp thích hợp để khắc phục và ổn định sự hoạt động của bộ máy nhà nước.  Thủ công nghiệp và thương nghiệp Thời kì này thủ công nghiệp và thương nghiệp có những bước phát triển nhất định. Trong đó phải kể đến một loạt các quan xưởng được xây dựng để phục vụ cho nhu cầu của vua, quan trong triều đình.Thời Lý – Trần, Thăng Long không những là trung tâm chính trị văn hóa mà còn là trung tâm kinh tế của cả nước với nhiều hoạt động buôn bán sôi nổi. Thời Lý cảng Vân Đồn là quân cảng và thương cảng diễn ra các hoạt động trao đổi buôn bán chính sang thời Trần, Thăng Long vừa là nơi buôn bán vừa là nơi làm thủ công nhưng vẫn mang vẻ “quốc tế của một đô thành”. Bên cạnh đó còn nhiều trung tâm buôn bán khác như: Thanh Hoa, Lạch Trường…. cùng với đó còn có rất nhiều làng nghề thủ công truyền thống ra đời như: Bát Tràng (Hà Nội), Thổ Hà, Phự Lóng (Bắc Ninh) chuyên làm gốm, Hoa Tràng (Nam Định) chuyên luyện sắt, Làng Bưởi (Gia Lương, Bắc Ninh) chuyên đúc đồng….Các hoạt động thương nghiệp diễn ra rộng khắp và sôi nổi. Sự phát triển nền kinh tế hàng hóathâm nhập vào cả nông thôn. Hiện tượng mua bán ruộng đất diễn ra tương đối phổ biến, do đó có ảnh hưởng đến đời sống của người nông dân. Sau những cuộc đấu tranh chống ngoại xâm ngành kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng bị ảnh hưởng to lớn. Sau kháng chiến chống quân Nguyên Mông, các xưởng thủ công bị tàn phá nghiêm trọng, sản xuất bị đình đốn. Các hoạt động thương nghiệp cũng bị gián đoạn do phải tập trung vào đấu tranh chống ngoại xâm bảo vệ đất nước. Như vậy, trong các thế kỷ X – XIV, bộ máy quản lý nhà nước dần được củng cố và hoàn thiện từ Trung ương đến địa phương. Đại Việt về cơ bản vẫn là một nước nông nghiệp. Diện tích lãnh thổ không ngừng được mở rộng, quá trình khai hoang phục hóa ruộng đất vẫn được tiến hành. Vấn đề ruộng đất là vấn đề mà nhà nước phong kiến Việt Nam hết sức quan tâm nhằm ổn định tình hình chính trị trong nước. 1.1.3. Tình hình xã hội Xã hội Đại Việt sau một thời kỳ phát triển phồn vinh từ thế kỷ XI đến nửa sau thế kỷ XIV đã lâm vào cuộc khủng hoảng khá sâu sắc trên nhiều lĩnh vực. Trước hết, đó là sự sa đọa của các tầng lớp quý tộc cầm quyền. Vương triều Trần từ vua Trần Dụ Tông (1341-1369) trở về sau, ngày càng đi vào con đường suy tàn. Vua quan đua nhau ăn chơi hưởng lạc, không quan tâm chăm lo đến đời sống của người nông dân như trước. Trong nội bộ tầng lớp quý tộc cầm quyền chia bè phái, mâu thuẫn, giết hại lẫn nhau để tranh giành địa vị, quyền lực ngày càng khốc liệt. Trong khi đó, từ đầu thế kỷ XIV, do mất mùa, đói kém, nông dân đã bán nhà cửa, ruộng vườn, con cái, bán mình làm nô tỳ cho các quý tộc địa chủ giàu có. Bọn chúng xâm chiếm hoặc mua rẻ ruộng đất, mở rộng các điền trang, tăng thêm số người làm. Nhiều nhà thờ cũng trở thành chủ đất lớn với nhiều điền nô. Cùng với tình trạng đó, vua quan, quý tộc lo ăn chơi, hưởng lạc, không chăm lo thực hiện các chức năng của Nhà nước, lại còn ra sức huy động sức người, sức của của nhân dân phục vụ cho các cuộc chiến tranh “chinh phạt” các nước Ai Lao, Champa. Bởi vậy, đời sống của nhân dân vô cùng cực khổ, tình trạng nhân dân phiêu tán trở nên khá phổ biến. Lúc này, Nhà nước không còn đủ sức quan tâm đến sản xuất nông nghiệp, sửa đắp và bảo vệ đê điều, các công trình thủy lợi. Từ nửa sau thế kỷ XIV, đó có 9 lần vỡ đê, lụt lớn vào các năm 1348, 1351, 1352, 1353, 1358, 1359, 1360, 1378, 1393, 11 lần hạn hán...Hậu quả tất nhiên của thiên tai, chiến tranh là tình trạng mất mùa, đói kém. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn xã hội gay gắt và phong trào khởi nghĩa nông dân cuối thế kỷ XIV. Đó là các cuộc khởi nghĩa của Ngô Bệ ở Hải Dương năm 1344, cuộc khởi nghĩa của Tề ở Bắc Giang năm 1354, cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thanh ở Thanh Hóa năm 1379, cuộc khởi nghĩa của Phạm Sư Ôn ở Hà Tây năm 1390...Lực lượng đông đảo nhất tham gia các cuộc khởi nghĩa là nông dân nghèo, nông nô, nô tỳ trong các điền trang của vương hầu, quý tộc Trần. Điều đó chứng tỏ, từ nửa cuối thế kỷ XIV, xã hội Đại Việt đã bước vào cuộc khủng hoảng, vương triều Trần đã suy thoái trầm trọng. Thiết chế chính trị quân chủ quý tộc và quan hệ bóc lột nông nô, nô tỳ lúc này đã khủng hoảng, kìm hãm sự tiến hóa của xã hội Đại Việt, làm cho quá trình phong kiến hóa trong xã hội tiến tới xác lập một thể chế quân chủ quan liêu chuyên chế, một Nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền thống nhất và mạnh, một quan hệ sản xuất địa chủ - nông dân lệ thuộc thống trị nền kinh tế bị cản trở. Bởi lẽ, tầng lớp quý tộc tôn thất nhà Trần từ vua đến quan lại vẫn ra sức giữ nguyên thiết chế quân chủ quý tộc, trong khi mô hình này đã bộc lộ rõ sự suy yếu và những mâu thuẫn gay gắt không thể điều hòa giữa quý tộc với các tầng lớp xã hội. Tình trạng xã hội bất ổn nêu trên còn là nguyên nhân dẫn đến sự đình đốn và trì trệ trong sản xuất và phát triển kinh tế, đứng trước cánh cửa suy vong các vương triều phong kiến Đại Việt, giặc phương Bắc nhanh chóng nắm bắt cơ hội này, triều đình của vua quan nhà Hồ mới được thành lập đã ban hành nhiều cải cách khắc phục khó khăn tuy nhiên nhưng mâu thuẫn dai dẳng từ việc cướp ngôi đoạt vị khiến lòng người không phục, là nguyên nhân không nhỏ dẫn tới những cải cách chưa thể thực hiện đúng như mong muốn, trong khi đó ở phương bắc nhà Minh đã sẵn sàng cho một lịch trình chinh phạt Nam tiến của chúng xuống Đại Việt. Sau khi nhà Hồ để đất nước rơi vào tay giặc Minh, Đại Việt bước vào giai đoạn đô hộ lần thứ hai sau gần bốn thế kỷ độc lập. Trong khoảng thời gian 20 năm dưới sự cai trị của triều đình phong kiến phương Bắc, bên cạnh những thay đổi về cơ cấu tổ chức chính quyền thì bộ mặt xã hội Đại Việt có nhiều thay đổi, từ mối quan hệ về tổ chức xã hội, cơ cấu giai cấp cho đến kinh tế, triều đình phong kiến phương Bắc muốn nô dịch và đồng hóa nhân dân ta, chúng đã thi hành nhiều chính sách khắc nghiệt nhằm đàn áp tinh thần chiến đấu của nhân dân ta. Đứng trước nhiều khó khăn do chính sách thâm độc của giặc gây nên, song được sự giúp đỡ đồng lòng của nhân dân người anh hùng dân tộc Lê lợi đã phất cờ khởi nghĩa giành lại nền độc lập tự chủ quốc gia, xây dựng nên một xã hội Đại Việt phát triển rực rỡ là bước phát triển đỉnh cao trong thời đại phong kiến Việt Nam. 1.2. CÁC LOẠI HÌNH SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT 1.2.1. Bộ phận ruộng đất do Nhà nước Trung ương trực tiếp quản lý Trong những thế kỷ đầu độc lập, giai cấp thống trị đã lấy mô hình nhà nước giai cấp phong kiến phương Bắc làm hình mẫu để xây dựng nhà nước của mình. Tuy nhiên, do ý thức dân tộc , lại thường xuyên phải đương đầu với những cuộc đấu tranh xâm lược nên việc xây dựng đất nước vững mạnh là tinh thần chung của các triều đại phong kiến Việt Nam trong giai đoạn thế kỷ X – XIV. Giống như nhà nước phương Đông lúc bấy giờ, Vua là người có quyền lực tối cao của đất nước, ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà Vua. Nhưng quyền sở hữu ruộng đất của nhà vua là quyền sở hữu trên danh nghĩa, trong thực tế sử dụng có nhiều hình thái chiếm hữu ruộng đất khác nhau. Trong các thế kỷ X – XIV có hình thức sở hữu ruộng đất như: - Ruộng sơn lăng Với tư cách giai cấp thống trị, nhà Lý và nhà Trần đều sử dụng quyền sở hữu ruộng đất của mình để cấp đất, đặt ruộng phù hợp với một triều đại quân chủ. Đây là loại ruộng dùng vào việc thờ phụng tổ tiên dòng họ nhà Vua. “ Ở các vùng có lăng mộ nhà Vua, ruộng đất được giao cho dân cày cấy và nộp một khoản hoa lợi phục vụ việc thờ cúng, bảo vệ lăng mộ của các vua ” [14, tr.23]. Cư dân ở đây được miễn mọi lao dịch. Tuy nhiên, tổng diện tích của ruộng sơn lăng rất nhỏ không có tác dụng gì đáng kể trong chế độ sở hữu ruộng đất nói chung.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét