Thứ Năm, 2 tháng 6, 2016

Sự chuyển biến văn hóa nhật bản thời kỳ mạc phủ tokugawa (1600 1868)

Chương 1 CƠ SỞ CỦA SỰ CHUYỂN BIẾN VĂN HÓA NHẬT BẢN TRƯỚC THỜI KỲ TOKUGAWA 1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - văn hóa - xã hội 1.1.1. Điều kiện tự nhiên Nhật Bản - “Xứ hoa Anh Đào” là một quần đảo phía Đông Bắc lục địa Châu Á, nằm giữa biển Nhật Bản và Thái Bình Dương. Quần đảo này được hình thành bởi những vụ nổ núi lửa cách đây hàng triệu năm. Nó bao gồm 4000 đảo lớn nhỏ uốn theo hình cánh cung rải từ Đông Bắc xuống Tây Nam, với chiều dài khoảng 3.900km, từ vĩ độ Bắc 45033 đến 200 25. Nhật Bản có tổng diện tích là 377.815km2. Tuy là một quần đảo nhưng Nhật Bản chỉ có 4 đảo lớn là: Hokkaido (Bắc Hải đảo); Honshu (Bản đảo hay Bản Châu); Shikoku (Tứ Quốc); Kyushu (Cửu Châu). Xét về mặt địa lý: Nhật Bản nằm ở một vị trí biệt lập cách xa đại lục, khoảng cách từ Nhật Bản đến Trung Quốc là 800km, vùng gần miền Nam bán đảo Triều Tiên là đảo Kyushu cách tới 180km. Có thể nói rằng, Nhật Bản đủ xa Châu Á để thoát khỏi các đột biến của lục địa nhưng lại đủ gần để có thể ảnh hưởng những thành quả của một nền văn minh đa dạng và phong phú. Từ xa xưa, quần đảo Nhật Bản luôn giữ mối quan hệ với lục địa Châu Á qua ba con đường: phía Bắc từ miền Đông Xibia đến Hokkaido qua Sakhalin; phía Đông từ bán đảo Triều Tiên đến Honshu và phía Nam từ đất Trung Hoa đến đảo Kyushu qua Đài Loan và quần đảo Ryukyu. Từ ba con đường này, Nhật Bản có mối quan hệ giao lưu kinh tế, văn hóa từ lâu với thế giới. Tuy nhiên, tính chất “đảo” ấy đã tạo nên ở Nhật Bản một hoàn cảnh địa lý rất đặc biệt. Bên cạnh những thuận lợi thì tự nhiên Nhật Bản cũng ẩn chứa nhiều thử thách thường trực và những tai họa khủng khiếp như: bão tố, sóng thần thường 6 xuyên ập đến, nhất là khi giao thông còn sơ khai, nó là một trở ngại lớn đối với Nhật Bản trong việc quan hệ giao lưu với các nước xung quanh và thế giới đặc biệt là về vấn đề giao lưu, trao đổi văn hóa. Nhưng sự biệt lập của tính chất “đảo” lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và bảo vệ nền độc lập dân tộc, giúp cho người Nhật chủ động cải tạo và xây dựng cho mình nột nền văn minh thống nhất và độc đáo. Điều kiện tự nhiên Nhật Bản tuy đẹp nhưng quả thật khắc nghiệt đối với con người. Những hòn đảo nghèo nàn này không được hưởng những thiên thời và địa lợi. Ở Nhật Bản, đất đai canh tác chỉ chiếm khoảng 15% diện tích, còn lại là đồi núi. Nhật Bản không những không có con sông lớn, không có những cánh đồng phù sa màu mỡ như ở Ai Cập, Lưỡng Hà hay Trung Quốc mà còn là đất nước phải chịu đựng nhiều nét khắc nghiệt và dữ dội của một vùng đất đầy núi lửa, động đất, sóng thần, bão lũ và hạn hán. Cho đến ngày nay, ở Nhật Bản còn hơn 30 ngọn núi lửa đang hoạt động trong số 196 ngọn núi. Hàng năm, có hàng nghìn lần rung chuyển địa chất và thỉnh thoảng lại có những trận động đất lớn, có khi thiêu hủy cả thành phố. Người Nhật đã sớm ý thức được những khó khăn bất lợi trong điều kiện địa lý và tự nhiên. Cho nên, từ thời cổ đại, Nhật Bản đã nhanh chóng tiếp thu những tinh hoa tiến bộ từ bên ngoài vào, đặc biệt là ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa để tạo điều kiện cho bước phát triển tiến bộ vượt bậc của mình. Như vậy, qua việc tìm hiểu vị trí địa lý tự nhiên của Nhật Bản đã cho chúng ta thấy, Nhật Bản đã vươn lên mạnh mẽ như thế nào để trở thành một trong những dân tộc đứng hàng đầu thế giới về kinh tế, kỹ thuật và cả những tinh hoa văn hóa. Sự thành công đó đã chứng tỏ là một thắng lợi của con người đối với thiên nhiên. 1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội Là một nước châu Á, cơ sở kinh tế chủ yếu dựa vào sản phẩm nông nghiệp tự nhiên, chính quyền Edo đã có một số chính sách tích cực khuyến 7 khích ngành kinh tế truyền thống này phát triển. Do đẩy mạnh khai hoang mà diện tích đất trồng trọt không ngừng được mở rộng. Nhiều vùng đất khô cằn, đầm lầy trước đây đã được cải tạo thành đất canh tác cùng với quá trình xây dựng mới và không ngừng hoàn thiện hệ thống tưới tiêu. Để tăng năng xuất, nhiều loại phân bón từ động, thực vật đã được sử dụng và trở thành tập quán quen thuộc của nhân dân Nhật Bản thời kỳ này. Thóc giống cũng đã được cải tạo và việc Nhật Bản nhập về một số loại giống mới đã giúp cho nông dân ở nhiều nơi cấy được hai vụ lúa. Kết quả là, diện tích đất canh tác đã tăng lên trong suốt thời kỳ Edo. Nếu so sánh vào đầu thế kỷ X, diện tích đất canh tác ở Nhật Bản mới chỉ đạt 860.000 ha, giữa thế kỷ XV là 950.000 ha, đến năm 1600 vượt lên khoảng 1.640.000 ha, đến năm 1720 đã tăng lên 2.970.000 ha và năm 1868 đạt trên 3.050.000 ha. Cùng với sự mở rộng về diện tích, sản lượng lương thực của Nhật Bản đã tăng lên rõ rệt. Nếu như năm 1600, tổng sản lượng lương thực mới chỉ đạt 19,7 triệu koku thì đến cuối thời kỳ Edo đã vượt lên 48,6 triệu koku. Như vậy, đất nông nghiệp của Nhật Bản đã tăng lên chủ yếu trong khoảng thời gian từ năm 1550 đến năm 1650. Trong giai đoạn từ 1600 đến 1868 diện tích đất canh tác đã được mở rộng tới 1.410.000 ha. Trong đó chỉ riêng 120 năm đầu của thời kỳ Edo diện tích đất mới khai phá đã tăng 1.330.000 ha (chiếm tỉ lệ 94%) nhưng trong những năm tiếp theo đất khai hoang cũng chỉ tăng thêm 80.000 ha, tức là tăng 6% nữa mà thôi. Rõ ràng là, không thể chỉ lý giải sự tăng trưởng vượt bậc về diện tích đất canh tác nông nghiệp của Nhật Bản vào đầu thời kỳ Edo bằng sự phát triển tự nhiên và những tiến bộ kỹ thuật. Chính sách khuyến khích nông nghiệp và chủ trương miễn giảm thuế đối với các vùng đất mới khai phá là nhân tố có tính quyết định dẫn đến việc mở rộng diện tích đất canh tác thời kỳ này. Đối với những vùng đất mới khai phá, người canh tác thường được miễn giảm thuế hoặc phải chịu một khoản thuế nhỏ. Trong những năm tiếp theo, tuy chỉ có phải nộp 8 thuế nhưng mức thuế cũng thấp hơn nhiều so với các vùng đất cũ mặc dù thu nhập thực tế ở các vùng đất mới có thể cao hơn. Nhưng từ thế kỷ XVIII trở đi, việc khai hoang trở nên khó khăn hơn, đòi hỏi chi phí tốn kém hơn. Trong khi đó, là lực lượng chủ yếu đứng ra tổ chức công việc khai hoang nhưng nhiều lãnh chúa lại gặp trở ngại trong vấn đề tài chính, không đủ khả năng khai phá những vùng đất mới nữa. Đây chính là nguyên nhân cơ bản khiến cho diện tích đất canh tác chỉ tăng lên ở mức độ hạn chế. Khác với các nước trong khu vực, kinh tế nông nghiệp phát triển trên cơ sở đồng bằng châu thổ, nông nghiệp Nhật Bản là nền kinh tế nông nghiệp thung lũng. Nền kinh tế đó lại hoạt động trong điều kiện khí hậu ôn đới với một môi trường sinh thái chuyên biệt, trải dài trên nhiều vĩ độ khác nhau. Đặc điểm này đã quy định nên nhiều sự khác biệt trong chu kỳ canh tác, kỹ thuật sản xuất và quan hệ xã hội giữa các cộng đồng kinh tế. Nhưng do điều kiện đất canh tác hạn hẹp của các vùng thung lũng mà cư dân nông nghiệp Nhật Bản đã phải sớm tập trung phát triển thâm canh và lường tính đến hiệu quả sản xuất trên mỗi diện tích gieo trồng. Cùng với những nhân tố xã hội khác không ngừng được mở rộng, hoàn thiện là thành tựu nổi bật của kinh tế nông nghiệp Nhật Bản thời Edo. Nhờ đó mà nhiều diện tích đất vốn khô cằn, đầm lầy hoặc đất chua mặn ven biển trước đây đã được cải tạo thành đất canh tác. Vào cuối thời kỳ Edo, người Nhật dã sử dụng một số phương tiện hiện đại của phương tây như máy bơm Hà Lan để phục vụ cho công việc tưới tiêu. Một số loại máy đập lúa, quạt và xay thóc cũng được cải tiến. Trong canh tác, kỹ thuật “đao canh thủy nậu”, “đao canh hỏa chủng” được áp dụng phổ biến. Đến cuối thế kỷ XVII, Nhật Bản đã có tới hơn 100 giống lúa. Việc đưa các loại giống mới vào canh tác đã làm thay đổi chu kỳ sản xuất, rút ngắn thời vụ. Do chủng loại giống phong phú cho nên nông dân có thể lựa chọn những giống lúa cho năng suất cao, thích hợp với điều kiện tự nhiên của địa phương 9 mình để canh tác. Trong sự phát triển chung đó, đóng góp của những thành tựu khoa học nông nghiệp là rất lớn. Thời Edo, Nhật Bản đã có một số nhà nông nghiệp nổi tiếng như Yasusada Miyazaki (1623 - 1697) với cuốn bách khoa thư về nông nghiệp (Nogyozensho, nông nghiệp toàn thư). Ngoài ra các nhà nghiên cứu Eijo Okura (1768- ?), Shien Sato (1773 - 1850) cũng là tác giả của hàng chục cuốn sách về tri thức nông nghiệp. Những thành tựu khoa học, kỹ thuật nông nghiệp đó đã giúp người canh tác chủ động hơn trong quá trình sản xuất đồng thời biết lựa chọn các phương pháp chăm bón và giống cây trồng thích hợp. Ngoài lúa là cây lương thực chính, nông dân còn trồng kê, lúa mì, đậu tương, chàm, bông, dâu tằm… một số loại cây ngoại nhập như: khoai lang, khoai tây, mía, lạc, ngô Ấn Độ, đậu Pháp, bí ngô, thuốc lá…cũng bắt đầu được trồng ở Nhật Bản. Điều đáng chú ý là, nhiều diện tích trồng lúa trước đây đã được chuyển sang chuyên canh một số loại cây công nghiệp hoặc đặc sản của địa phương. Do đó từ một ngành sản xuất chủ yếu là để bảo đảm nguồn lương thực, thực phẩm cho xã hội, nông nghiệp thời kỳ này còn hình thành nên các khu chuyên canh. Sự phát triển của các khu chuyên canh không những có thể tạo ra một khối lượng sản phẩm hàng hóa phong phú mà còn là nguồn cung cấp nguyên liệu cho các xưởng thủ công. Đây có thể coi là một sự chuyển biến về chất trong kinh tế nông nghiệp Nhật Bản. Vào thời Edo, dưới tác động của tư tưởng Khổng giáo, nông nghiệp được đề cao và được coi là nguồn sống của xã hội. Từ nhận thức đó, Mạc phủ cùng nhiều lãnh chúa địa phương đã có những chính sách khuyến khích ngành kinh tế này phát triển. Các tướng quân như Tokugawa Yoshimune (Đức Xuyên Cát Tôn, 1684-1751) hay Masayuki Hoshino, lãnh chúa vùng Aizu; Mitsumasa Ikada, lãnh chúa vùng Okayama; Yozan Uesugi cai quản vùng Yonezawa hay Shigekata Hosokawa lãnh chúa han Kumamoto…là những 10 người rất quan tâm đến phát triển nông nghiệp. Vì mục tiêu quân sự và cũng để tăng cường sức kéo cho nông nghiệp, nhiều lãnh chúa cũng rất chú trọng đến việc chăn nuôi, phát triển đàn gia súc. Trong những năm Kyoho (17161736), chính quyền Yoshimune đã trực tiếp quản lý việc nuôi ngựa ở Shimasa và Awa. Các giống ngựa tốt nhất ở Nhật Bản đã được nuôi trên những cánh đồng cỏ rộng lớn ở khu vực này. Vào thời Edo, tuy nông nghiệp được coi là ngành kinh tế căn bản nhưng những chuyển biến trong nông nghiệp luôn có quan hệ mật thiết với sự phát triển của các ngành thủ công nghiệp và thương nghiệp. Có thể thấy, sự tăng trưởng của nhiều ngành kinh tế thời Edo chính là dựa vào sức mua của thị trường nội địa mà ở đó khoảng 80% dân số là nông dân. Nhưng xã hội nông thôn không chỉ đơn thuần là xã hội tiêu thụ. Với sự xuất hiện của những khu đặc sản và một tỉ lệ ngày càng tăng của những người nông dân kiêm nghiệp, kinh tế nông nghiệp cũng đồng thời góp phần tạo ra những sản phẩm hàng hóa cho đất nước. Song song với sự phát triển của nông nghiệp thì thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng có nhiều phát triển đáng kể, sự phát triển đó là do những chính sách khuyến khích sản xuất của nhiều lãnh chúa, nhu cầu tiêu dùng hàng hóa đặc biệt là sức mua của giới thị dân ngày càng tăng lên mà thủ công nghiệp Nhật Bản thời Edo có nhiều bước phát triển vượt bậc. Việc áp dụng những kỹ thuật sản xuất mới cũng như khả năng mở rộng quy mô sản xuất cũng góp phần tạo nên những biến đổi trong ngành thủ công. Trên cả nước đã hình thành những trung tâm công nghiệp có quy mô tương đối lớn. Có công trường thủ công thu hút tới hàng trăm lao động. Thời Edo tính chuyên môn hóa giữa các ngành nghề được thể hiện rõ nét. Trong thủ công nghiệp đã hình thành các ngành như: ngành sản xuất vật tiêu dùng bao gồm dệt lụa, gốm sứ, giấy in, sơn mài…; ngành chế biến thực phẩm: nấu rượu sake, sản xuất 11

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét