Chủ Nhật, 5 tháng 6, 2016

Quan hệ ngoại giao mỹ thái lan trong thời kỳ chiến tranh lạnh (1945 1991)

Khóa luận tốt nghiệp 7 Trường ĐHSP Hà Nội 2 NỘI DUNG Chương 1 NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ MỸ - THÁI LAN TRONG THỜI KỲ CHIẾN TRANH LẠNH 1.1. QUAN HỆ NGOẠI GIAO MỸ - THÁI LAN TRƯỚC NĂM 1945 Sau hơn 100 năm (1833 - 1945) sau khi ký “Hiệp ước hữu nghị và thương mại” vào ngày 20 - 3 - 1833 [2; 22] . Quan hệ thương mại Mỹ - Thái Lan đã được tăng cường trong những năm đầu của thế kỷ XIX. Sau đó là những nỗ lực trong hợp tác nhân đạo, văn hóa… .Trong suốt những năm từ 1833 đến 1945, quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái Lan đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Năm 1938, quan hệ Mỹ - Thái Lan rơi vào ngưng trệ do vua Xiêm ký Hiệp ước năm 1833 đơn thuần là một hành động ngoại giao nhằm ngăn chặn mưu đồ độc chiếm Thái Lan của người Anh, chứ không phải là khuyến khích quan hệ thương mại giữa hai nước. Mặt khác, trong con mắt của người Mỹ lúc bấy giờ Xiêm không phải là một thị trường quan trọng. Mỹ đang quan tâm đến vùng thị trường bao la thuộc miền Tây nước Mỹ và toàn châu Mỹ. Ngoài ra, khi người Mỹ đến Xiêm, Anh và các nước phương Tây khác đã xác lập được quan hệ thương mại và gây ảnh hưởng khá vững chắc ở vương quốc này và Mỹ không dễ một sớm một chiều làm đảo ngược tình thế được. Vào những thập niên 1851 - 1861, là những năm quan hệ thương mại Mỹ - Xiêm được đẩy lên đến đỉnh cao nhất trong thời kỳ trước năm 1945. Với ưu thế là nước có hạm đội tàu buôn lớn nhất và có máy xay lúa làm hàng hóa, Mỹ mau chóng trở thành một trong những bạn hàng lớn của Xiêm. Năm 1958, Mỹ vươn lên thành bạn hàng thứ hai của Xiêm sau Anh. Phạm Duy Thịnh Lớp K35 - CN Lịch sử Khóa luận tốt nghiệp 8 Trường ĐHSP Hà Nội 2 Giữa lúc quan hệ thương mại Mỹ - Xiêm đang có nhiều tiến triển, đạt được nhiều thành tựu thì Nội chiến ở Mỹ nổ ra (1861 - 1865) đã làm ngưng trệ lại. Từ đó cho đến khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, quan hệ buôn bán giữa Mỹ và Xiêm vẫn luôn ở trong tình trạng cầm chừng. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, quan hệ Mỹ - Thái Lan rơi vào tình trạng căng thẳng (từ năm 1939 vương quốc Xiêm đổi tên thành vương quốc Thái Lan). Đến năm 1941, quan hệ thương mại giữa hai nước hoàn toàn bị tê liệt khi người Thái buộc công ty Standard Valuum company của Mỹ đang làm ăn ở Thái Lan phải chấm dứt hoạt động tại nước này. Trong khi quan hệ thương mại Mỹ - Thái không mấy phát triển thì các hoạt động của các giáo sĩ Tin Lành của Mỹ lại đạt được những bước tiến liên tục và gây được ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội Thái Lan. Đặt chân đến Xiêm lần đầu tiên vào năm 1931, các giáo sĩ Mỹ đã bắt tay ngay vào công việc xúc tiến một loạt các hoạt động nhằm mục đích tạo ra môi trường thuận lợi cho công tác truyền giáo của họ. Ban đầu các giáo sĩ chú trọng xây dựng quan hệ cá nhân thân mật với nhà vua và hoàng tộc Xiêm. Sau đó, họ bắt tay vào công tác xã hội như mở lớp học, du nhập kỹ thuật và báo chí… vào Xiêm. Sau hơn một thế kỷ hoạt động không mệt mỏi, các giáo sĩ người Mỹ đã dành được thiện cảm và sự ngưỡng mộ của các tầng lớp trong xã hội Xiêm. Trong khi gặt hái được nhiều thành công trong hoạt động xã hội, các giáo sĩ Mỹ vẫn không mấy thành công trong các cố gắng truyền bá Phúc âm. Xã hội Phật giáo ở Thái Lan hầu như dửng dưng trước đạo Tin Lành. Chính điều này làm cho vị thế của các giáo sĩ người Mỹ ở Xiêm bị suy giảm. Đến đầu thập niên 40 của thế kỷ XX, hoạt động của họ trên đất Xiêm thực sự chấm dứt. Phạm Duy Thịnh Lớp K35 - CN Lịch sử Khóa luận tốt nghiệp 9 Trường ĐHSP Hà Nội 2 Thành công trong các hoạt động xã hội của các giáo sĩ Tin Lành đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Việc nhà ngoại giao Mỹ là Townsend Harris đến Băng Cốc và nhanh chóng ký được một hiệp ước bất bình đẳng với Xiêm năm 1856 là một sự kiện quan trọng trong quan hệ ngoại giao Mỹ - Xiêm. Quan hệ ngoại giao giữa hai nước trở nên đặc biệt gần gũi trong những năm 1919 - 1939. Tại Hội nghị Vecxai (1919), Wilson đã một mình đáp ứng lời yêu cầu đòi các nước phương Tây xóa bỏ những đặc quyền bất bình đẳng mà họ đang hưởng trong quan hệ với Xiêm. Một năm sau, 1920, Hiệp ước Mỹ - Xiêm được ký kết. Khi Mỹ tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai cũng là khi chủ nghĩa “can thiệp” thắng thế hoàn toàn trong quan hệ quốc tế. Từ đấy, chính quyền Mỹ không còn bị Quốc hội giàng buộc trong các quyết định đối ngoại nữa. Do đó, chính quyền Rudơven hoàn toàn có đủ thẩm quyền bày tỏ thái độ với Thái Lan. Nhưng trong thời gian này, Chính phủ Phibun theo Nhật và tuyên chiến với Mỹ vào ngày 25 - 1 - 1942, đã đặt chính quyền Mỹ trước một sự lựa chọn khó khăn. Cuối cùng Rudơven đã đưa ra một giải pháp khôn ngoan là không chấp nhận lời tuyên chiến của Chính phủ Phibun, tiếp tục tái lập quan hệ với Thái Lan qua những người “Thái tự do”. Chính điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tái thâm nhập và gia tăng ảnh hưởng của Mỹ vào Thái Lan sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Như vậy, trong thời kỳ trước năm 1945, quan hệ Mỹ - Thái Lan chưa được triển khai một cách sâu rộng mà chủ yếu ở 3 lĩnh vực chính là ngoại giao, thương mại, truyền giáo. Đã có những lúc mối quan hệ đó tưởng chừng bị tê liệt nhưng với vị trí đặc biệt quan trọng của Thái Lan ở Đông Nam Á, Mỹ đã tìm mọi cách để duy trì mối quan hệ giữa hai nước. Đây là thời kỳ tạo tiền đề hết sức quan trọng cho quan hệ Mỹ - Thái Lan trong thời kỳ tiếp theo. Phạm Duy Thịnh Lớp K35 - CN Lịch sử Khóa luận tốt nghiệp 10 Trường ĐHSP Hà Nội 2 1.2. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI QUAN HỆ NGOẠI GIAO MỸ - THÁI LAN TRONG THỜI KỲ CHIẾN TRANH LẠNH 1.2.1. Nhân tố khách quan *Bối cảnh quốc tế: Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc cũng là lúc thế giới bước vào một cuộc chiến tranh mới - Chiến tranh lạnh. “Chiến tranh lạnh” là từ do Baruch - tác giả của kế hoạch nguyên tử lực của Mỹ ở Liên Hợp Quốc đặt ra, xuất hiện lần đầu tiên trên báo Mỹ ngày 26 - 7 - 1947. Theo phía Mỹ “Chiến tranh lạnh” là chiến tranh không nổ súng, không đổ máu nhưng luôn ở tình trạng chiến tranh nhằm ngăn chặn rồi tiêu diệt Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ tính chất của nó, Chiến tranh lạnh đã làm cho quan hệ quốc tế trở nên căng thẳng, hai nước đại diện cho hai hệ thống tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa là Mỹ và Liên Xô, đã ra sức chạy đua vũ trang thành lập các liên minh quân sự để lôi kéo các nước đồng minh về phe mình. Liên Xô và Mỹ tuy không đối đầu trực tiếp nhưng những cuộc chiến tranh cục bộ diễn ra ở khắp nơi theo nguyên tắc “đại diện”. Quan hệ quốc tế diễn biến phức tạp và nóng bỏng. Thế giới hậu Chiến tranh thế giới thứ hai còn chứng kiến sự ra đời của một loạt các nước xã hội chủ nghĩa trong đó phải kể đến sự ra đời của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (1949). Sự thắng thế của Chủ nghĩa cộng sản ở một đất nước rộng lớn, lại có đường biên giới chung với Liên Xô, đã nối liền Chủ nghĩa xã hội từ Tây sang Đông. Điều đó đã làm thay đổi cán cân lực lượng trên thế giới. Hệ thống xã hội chủ nghĩa ngày càng lớn mạnh. Chính vì vậy, Mỹ ra sức củng cố quan hệ với các nước đồng minh của mình. Trong đó, quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái Lan cũng được tăng cường. Song song với việc xây dựng những đồng minh tin cậy, Mỹ cũng đẩy mạnh các cuộc chiến tranh xâm lược để nắm lấy những vị trí trọng yếu. Với Phạm Duy Thịnh Lớp K35 - CN Lịch sử Khóa luận tốt nghiệp 11 Trường ĐHSP Hà Nội 2 mục đích đó, Mỹ đã tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam và các nước Đông Dương khác (1954 - 1975). Để tiến hành chiến tranh, bên cạnh việc huy động nguồn lực trong nước vô cùng tốn kém, khoảng 676 tỷ đôla, nếu tính cả chi phí gián tiếp là 920 tỷ đô la [18; 93], Mỹ còn huy động đồng minh và chư hầu vào cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Ngoài những đồng minh ở Thái Bình Dương như Niudilân, Úc, Philippin, Inđônêxia, Mỹ còn nhận ra một nước đồng minh đầy tiềm năng, đó là Thái Lan. Bởi Thái Lan, có vị trí liền kề với các nước Đông Dương nên rất thuận lợi cho việc đặt các căn cứ quân sự cũng như việc vận chuyển lương thực, thực phẩm, thiết bị chiến tranh sang phục vụ cuộc chiến tranh. Thêm vào đó, từ Thái Lan có thể di chuyển sang các nước Đông Dương bằng cả đường bộ, đường thủy và đường hàng không, điều mà Mỹ không tìm thấy ở bất cứ đồng minh nào trong khu vực này. Đó cũng là nguyên nhân để chúng ta dễ dàng giải thích được tại sao quan hệ ngoại giap Mỹ - Thái Lan trong Chiến tranh lạnh rất phát triển. Đến những thập niên 80 của thế kỷ XX, tình hình thế giới có nhiều thay đổi và do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế nên tình hình ngoại thương của các nước tư bản chủ nghĩa không ngừng suy giảm, kèm theo đó là xu hướng bảo hộ ngày càng tăng. Đó cũng là một yếu tố có tác động sâu sắc tới quan hệ trên lĩnh vực kinh tế giữa Mỹ và Thái Lan và do đó cũng đã có nhiều ảnh hưởng lên quan hệ ngoại giao giữa hai nước trong cuộc Chiến tranh lạnh. *Bối cảnh khu vực: Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Đông Nam Á được chú ý như một trong những vị trí địa chiến lược đặc biệt quan trọng của chủ nghĩa tư bản trong cuộc Chiến tranh lạnh. Bởi nơi đây sẽ hình thành con đê ngăn làn sóng cộng sản của có thể tràn xuống phía Nam. Mặt khác, đây còn là con đường thuận lợi để tiến vào Trung Quốc, sang Liên Xô và đi sâu vào lục địa châu Âu để tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản, tiêu diệt Liên Xô. Mỹ đã nhận thức sâu sắc được điều này. Vì thế, Mỹ tìm cách nắm lấy Đông Nam Á. Phạm Duy Thịnh Lớp K35 - CN Lịch sử Khóa luận tốt nghiệp 12 Trường ĐHSP Hà Nội 2 Nên ngay khi người Pháp chưa rời khỏi Việt Nam, Mỹ đã thế chân để không tạo ra ở nơi đây “một khoảng trống quyền lực” nào. Đồng thời, Mỹ tăng cường lôi kéo và xây dựng những đồng minh tin cậy của mình trong khu vực Đông Nam Á. Ngoài Philippin, Inđônêxia, Mỹ còn đặc biệt quan tâm đến Thái Lan - một đất nước của những chính sách ngoại giao khôn ngoan nhưng dễ thay đổi và lôi kéo. Một thuận lợi là Chiến tranh lạnh đã chia thế giới thành hai phe: Tư bản chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa, và đã đẩy hai nước Mỹ và Thái Lan về cùng một phía, tạo thành những “đồng minh tự nhiên”. Nhận thấy vị trí của Thái Lan là “chìa khóa” của Đông Nam Á, Mỹ đã đẩy mạnh quan hệ với nước này, ra sức “cứu vớt” Thái Lan sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Vì thế, trong Chiến tranh lạnh, quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái Lan được đẩy mạnh hơn bất cứ giai đoạn nào trước đó. 1.2.2. Nhân tố chủ quan *Nước Mỹ và chính sách đối ngoại của nó Được ra đời từ thế kỷ XVIII, Mỹ là một trong những nước tư bản trẻ nhất thế giới nhưng lại có sức vươn lên và bành trướng rất mạnh mẽ. Từ một thuộc địa của Vương quốc Anh, chỉ sau hơn 100 năm độc lập, đến cuối thế kỷ XIX, nước Mỹ đã vươn mình trở thành cường quốc đứng đầu thế giới về tiềm lực kinh tế quốc dân. Từ đó, người Mỹ tiếp tục hướng vào gia tăng thế lực của nước họ về mặt quân sự và chính trị. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nước Mỹ được biết đến như là siêu cường số một trên thế giới. Khởi phát từ cuộc đấu tranh chống thực dân Anh giành chính quyền độc lập rồi tự mình tạo ra một thể chế chính trị, xã hội như một hành động khước từ các thể chế cũ ở châu Âu, nước Mỹ được không ít các quốc gia và những người theo đuổi lập trường dân chủ tư sản coi là người đi tiên phong trong cuộc đấu Phạm Duy Thịnh Lớp K35 - CN Lịch sử

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét