Thứ Hai, 6 tháng 6, 2016

Quan hệ kinh tế asean eu giai đoạn (1996 2008)

11 quốc gia trên thế giới. Toàn cầu hóa kinh tế tác động đến các nền kinh tế. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất đã dẫn đến một xu thế lớn đang chi phối sự phát triển của thế giới hiện đại, đó là quá trình toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa (tiếng Anh là Globalization), xét về bản chất là quá trình gia tăng mạnh mẽ những mối liên hệ ảnh hưởng, tác động lẫn nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, chính trị giữa các quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới. Trong các nội dung trên thì toàn cầu hóa kinh tế vừa là trung tâm, vừa là động lực thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa các lĩnh vực khác. Về bản chất, toàn cầu hóa kinh tế là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia và khu vực, tạo ra sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới hội nhập và thống nhất. Toàn cầu hóa có tác động tích cực và tiêu cực đến nền kinh tế thế giới nói chung và quan hệ kinh tế ASEAN - EU nói riêng. Như vậy trước bối cảnh xu thế toàn cầu hóa ngày càng mở rộng thì nó đã tác động sâu sắc đến hai tổ chức ASEAN và EU. Chính vì những biến đổi cơ bản trên, bối cảnh thế giới giai đoạn này mang những đặc điểm mới: Thứ nhất, đó là sự khuyếch tán quyền lực trong quan hệ quốc tế. Một thế giới đa cực đang hình thành. Các cường quốc đang vừa hợp tác vừa cạnh tranh để gia tăng sức mạnh của bản thân, thiết lập vị trí thuận lợi cho mình. Không chịu sự kiềm chế của hai phe, hai cực, các quốc gia vừa và nhỏ cũng có cơ hội vươn lên, đóng vai trò ngày càng quan trọng trong đời sống quốc tế, góp phần làm tăng cường xu thế dân chủ hóa trong quan hệ quốc tế. Bên cạnh đó, các quốc gia đều có xu hướng đa phương, đa dạng hóa quan hệ, thể hiện xu thế của chủ nghĩa đa phương trong quan hệ quốc tế. Thứ hai, xu thế chủ đạo trên thế giới là xu thế hòa bình, “đối thoại thay cho đối đầu”. Điều này xuất phát từ nhận thức mới về an ninh, về bạn thù và đặc biệt là ý thức về sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn giữa các quốc gia. 12 Các quốc gia đều nhận thức rằng phương thức để cạnh tranh và giải quyết mâu thuẫn hiện nay không phải là giống nhau, xung đột với nhau mà phải lôi kéo, dính líu, ràng buộc nhau, vừa hợp tác vừa đấu tranh với nhau. Vũ lực đã không còn là phương thức hữu hiệu để giải quyết các vấn đề trong quan hệ đối ngoại, vì một quốc gia trong thế giới ngày nay bị ràng buộc quá nhiều. Thứ ba, yếu tố kinh tế trở thành yếu tố trung tâm trong xây dựng sức mạnh quốc gia. Có thể gọi đây là một phần cơ bản của quy luật phát triển trong thời kỳ mới. Trong mấy trục năm trước đây, nghĩ tới an ninh là người ta nghĩ tới an ninh quốc phòng. Ngày nay, nếu các quốc gia không tập trung vào phát triển kinh tế nâng cao thực lực quốc gia, thì đây là nguy cơ to lớn nhất đối với an ninh của họ. Lý do của sự ưu tiên kinh tế này là sự giải phóng sức sản xuất của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện nay, với những phát triển vượt bậc trong thông tin liên lạc, giao thông vận tải, nhu cầu chu chuyển mạnh mẽ của các dòng tài nguyên, sự phân công lao động ở mức độ tinh vi hơn trên thế giới khiến cho các quốc gia phải tập trung để đáp ứng. Nó cũng tạo thuận lợi bởi sự thực khách quan là nền kinh tế thế giới đã không chịu những ngăn cách của hai khối trong chiến tranh lạnh. Như một nhà nghiên cứu đã nói, thế giới đang chuyển từ cách tiếp cận địa chính trị sang cách tiếp cận địa kinh tế. Các quốc gia tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội vẫn cùng tồn tại trên thế giới, nhưng họ không ngăn cách bởi ý thức hệ, mà lại ràng buộc với nhau bởi lợi ích kinh tế. Bước sang thế kỷ XXI, thế giới có nhiều biến đổi quan trọng. Điều này cũng đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của thế giới nói chung, quan hệ giữa các quốc gia và khu vực nói riêng. Tác động đến quan hệ kinh tế ASEAN - EU. Đó là chủ nghĩa khủng bố quốc tế xuất hiện. Đặc biệt là sự kiện khủng bố tại Mỹ ngày 11/9/2001 đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của mọi quốc gia trên thế giới, do vậy nhu cầu hợp tác quốc tế trong việc chống khủng 13 bố là khách quan, được đặt ra với mọi quốc gia, khu vực và toàn cầu. Nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh như : vấn đề vũ khí hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, Iran, cuộc chiến ở Irắc, chủ nghĩa khủng bố quốc tế gia tăng mạnh mẽ trong thời gian gần đây như khủng bố ở Madrid, Tây Ba Nha năm 2004, ở Anh và Ai cập, tình hình bất ổn ở Irắc và Trung Đông… Đang đặt ra trước thế giới nói chung, quan hệ EU - ASEAN nói riêng nhu cầu tăng cường hợp tác về mọi mặt nhất là lĩnh vực an ninh chính trị chống khủng bố quốc tế tạo môi trường ổn định cho phát triển kinh tế. 1.1.2. Bối cảnh khu vực Trước những tác động to lớn của quốc tế thì bối cảnh khu vực cũng tác động không nhỏ đến mối quan hệ của hai khối ASEAN và EU. Khi trật tự thế giới mới đang được hình thành còn nhiều biến đổi to lớn về cả chính trị và kinh tế nó tác động đến quan hệ kinh tế ASEAN - EU như cuộc khủng kinh tế - tiền tệ châu Á bắt đầu từ tháng 6/1997. Sau một thời kỳ tăng trưởng cao và ổn định khoảng 10 năm, tưởng rằng các nước ASEAN sẽ tiếp tục tăng trưởng và trở thành NICS. Hậu quả khắc nghiệt của cuộc khủng hoảng đối với tăng trưởng kinh tế đã hủy bỏ nhiều những thành tựu đã đạt được trong những năm tăng trưởng nhanh. Bắt đầu từ cuộc khủng hoảng tiền tệ, nó đã tác động một cách nghiêm trọng tới toàn bộ cơ cấu kinh tế của từng nước ASEAN đặc biệt là lĩnh vực tài chính. Cuộc khủng hoảng này đã ảnh hưởng không chỉ tới nội bộ trong các thành viên như nạn thất nghiệp, giảm lương chi phí công cộng… Nó còn ảnh hưởng tới quan hệ kinh tế của ASEAN - EU. Vì khi bị khủng hoảng kinh tế các nước ASEAN sẽ bị suy giảm về các hoạt động kinh tế cả nhật khẩu và xuất khẩu, sự sụp đổ của một số ngành công nghiệp, sự bất ổn về hệ thống ngân hàng và các nước ASEAN đã đưa ra các chính sách mậu dịch hướng nội. Như vậy, trước ảnh hưởng to lớn của cuộc khủng hoảng kinh 14 tế thì tất yếu nó sẽ ảnh hưởng đến quan hệ kinh tế ASEAN - EU, đặc biệt là trong quan hệ mậu dịch và đầu tư. Thứ nhất, mậu dịch: Mậu dịch là bộ phận bị phê phán trong trách nhiệm của ASEAN trong cuộc khủng hoảng này nhưng có sự khác nhau giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Do các nước ASEAN theo đuổi chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu nên hoạt động xuất khẩu đã trở thành động lực tăng trưởng. Ở mức độ lớn thì các nền kinh tế ASEAN đặt sự phục hồi của mình trên cơ sở mở rộng xuất khẩu do nhu cầu trong nước có hạn là nguồn gốc của sự tăng trưởng. Tuy nhiên, đối với nhập khẩu sẽ có cách tiếp cận khác. Nhập khẩu về thực chất có liên quan tới việc cải thiện cán cân thanh toán hiện hành. Bởi vậy ASEAN muốn thực hiện mậu dịch của mình bằng 2 con đường tăng xuất khẩu từ ASEAN sang EU trong khi muốn giảm nhập khẩu từ tất cả các nguồn kể cả EU. EU có thể giữ vai trò quan trọng giúp cho việc mở rộng xuất khẩu của ASEAN. Trong cuộc khủng hoảng Mê-hi-cô 1994, khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ là nơi cung cấp thị trường cho việc nhập khẩu của Mê-hi-cô. ASEAN cần một giải pháp tương tự nhưng không giống như Mê-hi-cô, họ không có lợi thế của nhóm khu vực với những thành viên có thị trường rộng lớn. Nhật Bản có thể giữ vai trò này bằng việc mở rộng thị trường kinh tế trong nước của mình nhưng với những biện pháp mà chính phủ Nhật đưa ra thì rất khó có thể dựa theo đó để phục hồi nền kinh tế. EU có thể giữ vai trò này bằng việc tạo thuận lợi cho hàng xuất khẩu của ASEAN, loại bỏ mọi hàng rào phi thuế quan như những biện pháp phá giá và những chừng phạt mậu dịch liên quan tới môi trường. Một lĩnh vực khác nơi mà EU có thể tham gia là nâng cấp hàng chế tạo xuất khẩu của ASEAN để duy trì sức mạnh của chúng. Sự bào mòn tính cạnh tranh của hàng chế tạo là do sự tăng lương nhanh hơn tăng năng suất và tính 15 cạnh tranh về công nghệ gây ra. Việc phá giá từng bước đồng tiền có thể coi là giải pháp lâu dài để phục hồi cạnh tranh. Thực tế, câu trả lời nằm trong việc cải thiện công nghệ. EU có thể hợp tác với các nước ASEAN để nâng cấp công nghệ việc làm này cho phép tìm thấy lợi thế cạnh tranh mới. Thứ hai, đầu tư: Cuộc khủng hoảng kinh tế - tiền tệ đã ảnh hưởng tiêu cực tới đầu tư của EU trong khu vực Đông Nam Á nhưng nó đã đưa ra những cơ hội mới cũng như những thay đổi cơ cấu và hình thức đầu tư tương lai của EU ở ASEAN. Những thất bại kinh doanh do tăng trưởng kinh tế thấp đi đã làm giảm giá trị đầu tư của EU và điều này có thể sẽ ảnh hưởng tới dòng đầu tư trực tiếp EU trong khu vực. Điều kiện kinh doanh mới ở ASEAN đã làm cạn kiệt nguồn vốn duy trì hoạt động của mình và đối với những nhà xuất khẩu, phải mở rộng để đáp ứng những sự tăng trưởng xuất khẩu có thể. Ngoài những lĩnh vực đầu tư truyền thống. Nguồn vốn của EU cũng có thể đổ về lĩnh vực tài chính. Ở Thái Lan, cuộc khủng hoảng này đã cho phép đầu tư nước ngoài tham gia vào các ngành như ngân hàng, một lĩnh vực mà trước đây là đóng cửa đối với bên ngoài. Cùng với đầu tư trực tiếp, tập hợp những đầu tư của EU cũng có thể giúp ASEAN hướng đầu tư vào thời kỳ tương đối dài hơn do vậy cần neo chúng vào nền kinh tế trong nước. Mô hình đầu tư này sẽ giảm nhanh. Để thực hiện chiến lược này, cần có một cơ cấu thị trường vốn sâu sắc hơn. Trước hết là việc phát triển thị trường chứng khoán để tài trợ cho những đầu tư dài hạn. Những nguồn vốn ngắn hạn của EU kể cả lương hưu và quỹ thường xuyên cũng cần được khuyến khích ra nhập vào mô hình đầu tư này. Trong 8 năm gần đây, ASEAN đã có những chương trình phát triển hạ tầng rộng rãi. Chúng có ảnh hưởng bất lợi do yêu cầu của một lượng tài chính quá lớn và dung lượng nhập khẩu cao. Rất nhiều trong số các dự án đó được tư nhân hóa như hệ thống điện, nước, giao thông, công cộng. Nhiều chương 16 trình đó đã bị ngừng lại và hiện rất cần những nguồn vốn mới. Để tiếp tục những dự án này, chính phủ các ASEAN cho phép đầu tư nước ngoài lớn hơn và những cơ hội mới cho các nhà đầu tư EU. Cuộc khủng hoảng kinh tế và tiền tệ ở ASEAN đã gây ra thay đổi căn bản về cơ cấu kinh tế, tiềm năng tăng trưởng và khuynh hướng phát triển. Với tư cách là những đối tác mậu dịch và đầu tư truyền thống, EU có thể hỗ trợ để cải thiện những ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng và giúp cho việc phục hồi. Mặc dù ASEAN chỉ chiếm một phần nhỏ trong mậu dịch và đầu tư của EU nhưng EU có thể giữ một vai trò quan trọng trong sự phục hồi của ASEAN. Thực tế, quan hệ giữa hai khối cần được củng cố hơn nữa qua việc phát triển mậu dịch và mở rộng quy mô đầu tư. Mậu dịch giữa hai nhóm nước nên mở rộng quy mô theo hướng mở cửa cho hàng xuất khẩu của ASEAN vào thị trường EU. Sự phát triển hơn nữa liên kết EU cũng góp phần cải thiện quan hệ mậu dịch. Ngoài bị tác động bởi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á thì quan hệ kinh tế ASEAN - EU còn bị tác động bởi chính bản thân các khối: Thứ nhất, Liên minh châu Âu đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu, quá trình này đã đạt được những thành tựu cực kỳ to lớn nhưng cũng đang nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp đòi hỏi phải giải quyết. Sau khi Hiệp ước Maastricht được thông qua, EU đã có bước phát triển về chất, đặc biệt đáng chú ý là việc hình thành Liên minh Kinh tế - Tiền tệ với việc ra đời của đồng tiền chung châu Âu - đồng Euro. Cho đến nay khu vực đồng Euro đã có 12 nước tham gia, đồng Euro đã trở thành phương tiện thanh toán và dự trữ ngoại tệ quan trọng của nhiều nước. Hiện nay liên minh châu Âu đang tích cực chuẩn bị các điều kiện để đưa quan hệ giữa các nước lên tầm cao mới bằng việc gắn kết chặt chẽ hơn quan hệ các nước trong khu vực quốc phòng an ninh, tư pháp. Việc các nước thành viên cùng nhau phê chuẩn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét